Cổng Chánh Môn tại Tòa Thánh Tây Ninh

Thiện Tâm Cao Đài trang Kinh Sách và Giáo Lý Cao Đài

Tòa Thánh Tây Ninh

Thiện Tâm Cao Đài trang Kinh Sách và Giáo Lý Cao Đài

Một Thời Cúng của tín đồ Cao Đài

Thiện Tâm Cao Đài trang Kinh Sách và Giáo Lý Cao Đài

Chánh Điện và Quả Càn Khôn tại Bát Quái Đài

Thiện Tâm Cao Đài trang Kinh Sách và Giáo Lý Cao Đài

Tòa Thánh Tây Ninh về Đêm

Thiện Tâm Cao Đài trang Kinh Sách và Giáo Lý Cao Đài

Chủ Nhật, 13 tháng 1, 2013

Hạc và Gà


HẠC và GÀ


Một bữa nọ,Trời vừa rựng sáng,
Ánh nhựt hồng chói rạng phương đông
Anh gà vừa nhảy xuống lồng,
Vươn mình đập cánh dáng trông oai hùng.
Gà cảm thấy vô cùng sung sướng,
Lợi,danh,tình vui hưởng quanh năm.
Mặc cho thế cuộc thăng trầm,
Gà vui con vợ,Gà tầm mồi ngon…
Cùng thở ấy có con Bạch Hạc,
Thấy sự đời chua chát đau thương.
Sắc,tài,danh lợi vấn vương buộc mình
Nghĩ chán kiếp phù sinh giả dối,
Hạc vội vàng tìm lối thoát thân.
Núi rừng thủ phận thanh bần,
Tịnh thanh một cõi phong trần mặc ai.
Nay nhắm lúc Xuân lai đông mãn,
Bình minh về ánh sáng đẹp tươi.
Hạc liền vỗ cánh tung trời,
Năm châu bốn biển đồng thời xem qua.
Bỗng chợt thấy anh gà bạn cũ,
Đắm chìm trong lạc thú xa hoa
Vui theo nẻo vạy đường tà,
Vợ con khám ngục,cửa nhà cùm gông.
Hạc thấy thế động lòng trắc ẩn,
Muốn tìm phương dắt dẫn bạn gà,
Nhánh cây đáp xuống là đà,
Vội vàng chào hỏi gọi là bạn thân…
Gà thấy Hạc chẳng cần thủ lễ,
Dáng lo là dường thể khinh khi.
Bởi Gà còn tánh mê si,
Tưởng đâu mình bảnh nên thì tự cao.
Giọng kiêu hãnh,hỏi “Sao anh Hạc?”
Bấy lâu nay,trôi giạt nơi nào?
Gia đình sự nghiệp ra sao?
Mà anh có vẻ khổ lao nghèo nàn…?
Hạc thong thả dịu dàng đáp lại:
“Nầy anh Gà,anh hãy nghe đây
Thời gian tôi cách chốn nầy,
Tìm nơi thanh vắng am mây tu trì
Nay tôi đã thoát ly sự thế,
Khắp năm châu bốn bể là nhà.
Mỗi ngày một bữa ngọ qua,
Không lương,không bỗng cũng là an thân.”
Gà nghe nói chẳng cần suy nghĩ,
Bỉm môi cười dem sỉ chê bai:
“Đời anh thật chẳng bằng ai,
Thua thằng thất nghiệp tương lai mịt mù
Anh coi tôi võng dù ngang dọc,
Sớm với chiều chẳng nhọc công lao.
Tôi nay tột bực sang giàu,
Nhà cao cửa rộng ra vào thảnh thơi.
Còn anh lại tìm nơi vắng vẻ.
Chôn cuộc đời son trẻ tài hoa.
Vui chi kiếp sống không nhà!
Không lương,không bổng thật là nguy vong!
Tôi thì được phỉ lòng dục lạc,
Lúa đầy kho,tiền bạc đầy rương.
Vui bên gác tía lầu hường,
Vinh sanh phú túc phước dường trời cao.
Còn anh vướng thân vào cảnh khổ,
Chốn núi rừng là chỗ quạnh hiu.
Chỉ nghe vượn hú chim kêu,
Buồn teo vắng tẻo sớm chiều thân côi.”
Gà mặc sức khua môi múa mỏ,
“Tôi như vầy thật có ai hơn.
Áo quần hàng lụa láng trơn,
Năm thê bảy thiếp tình nhơn cũng nhiều…
Thê cùng thiếp sớm chiều hầu hạ,
Phán một lời kẻ dạ người thưa.
Rượu ngon sắc tốt say sưa,
Con ngoan vợ đẹp sớm trưa vui vầy.
Anh là kẻ bất tài vô dụng,
Tôi là người anh dũng tài ba,
Anh thì bộ dạng xấu xa.
Tôi thì như một đóa hoa vẹn mười.”
Nghe vừa dứt,mỉm cười,Hạc đáp:
“Cái lẽ đời cao thấp tự nhiên.
Tôi nay bạc phước vô duyên,
Không nhà,không cửa,gạo tiền cũng không.
Còn anh được phước hồng sang cả,
Anh như người vương giả công hầu,
Của đời anh quyết tóm thâu,
Con xinh,vợ đẹp,nhà lầu,xe hơi…
Tôi thì phải đội trời đạp đất,
Một chữ bần,nhứt vật cũng không.
Đói thì rau trái đỡ lòng,
Khát dùng nước suối,cội tòng nghỉ chân.
Chốn tịch mịch mà thân khỏe nhẹ,
Khác hơn là những kẻ mang gông.
Lợi danh ví thể chim lồng,
Sắc tài như cá giữa dòng mắc câu.
Cá mắc câu biết đâu mà gỡ,
Chim trong lồng biết thuở nào ra!
Nay anh phú quí vinh hoa,
Lợi danh trói buộc khó mà thoát thân.
Còn như tôi thanh bần đơn giản,
Bốn phương trời phiêu lãng vân du,
Quyết lòng vẹt phá mây mù,
Quyết lòng thoát khỏi ngục tù thế gian.
Khuyên anh sớm lánh đàng hậu hoạn
Nhớ những điều tai nạn về sau.
Khi nào anh được sang giàu.
Thì anh nên nhớ ngày nào Nghiệp vương.
Khi anh được người thương kẻ mến,
Thì anh nên nhớ đến thớt dao.
Nhớ khi dao khứa máu trào,
Nhớ khi bằm xắt,nấu xào hầm kho…
Khi anh được nhà to cửa rộng,
Thì nên phòng kiếp sống bể dâu.
Trăm năm rồi có gì đâu,
Chỉ hai tay trắng về chầu Diêm Vương.
Khi anh được tiền rương bạc vựa,
Thì phòng khi  tắm lửa,xé phay.
Khi nào sặc sỡ men say,
Thì anh nên nhớ những ngày rên la.
Khi anh được vợ ba thiếp bảy,
Thì nên ngừa lúc phải quạnh hiu,
Khi nào con vợ mến yêu,
Khi anh được thì thân mạnh bạo,
Thì anh nên ngừa chão nước sôi.
Khi nào anh được cao ngôi,
Thì anh nên nhớ những hồi  xương tan.
Khi anh được cao sang vinh hiển,
Thì phòng ngừa nạn biến nguy to,
Khi nào lúa được đầy kho,
Thì anh phòng lúc lửa lò đốt thiêu.
Khi anh được tưng tiu quí trọng,
Thì phòng khi thất vọng khổ nguy.
Khi nào anh được kiêng vì,
Thì anh nên nhớ những khi tan hình…
Tôi sở dĩ cất mình thoát tục,
Không ra tay tiếp xúc với đời.
Vì đời vốn thiệt trò chơi,
Hết khi răng trắng đến thời mang trâu…
Tôi chẳng thích ngựa trâu đất ruộng,
Ngán sắc ,tài chẳng muốn lợi danh.
Là vì biết cảnh bại thành,
Đeo theo vật chất tử sanh quay cuồng.
Đời giả tạm như tuồng chớp bóng,
Mọi sự đều ảo mộng vô thường.
Sao bằng chánh đạo dựa nương
Rảo chân bước thẳng con đường siêu nhân.
Tuy phải chịu đầu trần sương nắng,
Mà tinh thần trong trắng thanh cao.
Tâm không mảy bợn trần lao,
Thạnh suy vinh nhục nghèo giàu khỏi lo,
Anh được hưởng lúa kho phía trước,
Thì cũng giành chảo nước phía sau.
Rồi đây có lẽ lâu mau
Nước sôi chẳng vị,thớt dao chẳng từ.
Vui chi cảnh một cười mười khóc,
Vui để rồi tang tóc đau thương.
Vui mà chịu luật vô thường,
Có ngày rồi phải sụp mương té hầm…
Kìa những kẻ sơn lâm ẩn trú,
Một chữ nhàn vui thú thanh tao.
Khi thì rảo bước động đào,
Khi thì thanh tịnh nhập vào cảnh Tiên.
Một kiếp sống vô quyền vô trị,
Tuy nghèo mà tâm trí nhàn du.
Đêm ngày tánh mạng song tu,
Tránh xa kiếp sống võng dù đua bơi”.
Nghe vừa dứt những lời đanh thép.
Gà thấy mình nhỏ hẹp tối tăm.
Vừa thảm đạm vừa hổ thầm,
Dường như thấy rõ lỗi lầm nạn tai.
Gà cất tiếng thưa: “Này anh Hạc,
Tôi bấy lâu lầm lạc tạo gây.
Mùi đời tôi đã mê say,
Phong lưu trụy lạc sắc tài lợi danh.
Nay tôi muốn theo anh về núi,
Nhưng ngặt vì tội lỗi lỡ vương
Vợ con nhà cửa,ruộng,vườn,
Làm sao dứt bỏ tìm đường thoát thân.
Phương pháp nào giải lần oan nghiệp,
Nhờ ơn anh trực tiếp chỉ giùm.
Làm sao mọc cánh đại hùng,
Bay ra khỏi chốn gông cùm trối trăn?
Gà tự nguyện ăn năn sám hối,
Hạc sẵn lòng chỉ lối huyền vi.
Chỉ rành chữ hiệp và ly!
Chỉ rành tất cả cái chi vô thường.
Rồi chỉ chỗ tình thương rộng hẹp,
Thương thế nào tốt đẹp cao xa.
Tình thương ai gọi cũng là,
Rộng suy một chút thì ra đại đồng.
Lời Phật dạy mênh mông biển khổ,
Ai là người tỏ ngộ quay về.
Tức thì bờ giác cận kề,
Tự nhiên nghiệp chướng lầm mê chẳng còn.
Nay anh muốn vào non dưỡng tánh,
Muốn nhẹ mình cất cánh bay cao.
Tôi nguyền dắt dẫn cho nhau,
Dìu anh ra khỏi bốn rào thế gian…
Vừng đông rạng ánh vàng chói rực,
Lời Pháp lành đánh thức chơn tâm.
Bấy lâu Gà quá mê lầm,
Nay đà thức tỉnh thân tâm nhẹ nhàng.
Hươi gươm huệ,trái oan đoạn tuyệt,
Dốc một lòng,Gà quyết vào non.
Đoạn lìa sự nghiệp vợ con,
Cất mình theo Hạc núi non ẩn mình.
Từ độ ấy vắng hình biệt dạng,
Hạc với Gà đôi bạn đồng tâm,
Cùng nhau nương náu sơn lâm,
Chuyên lo dưỡng tánh tu tâm tháng ngày.
Gà cùng Hạc vui say mùi đạo,
Chẳng bao lâu hườn đáo bổn nguyên,
Thần thông tự tại diệu huyền,
Toàn năng toàn giác Phật Tiên tác thành.
         
(Sưu Tầm)

Twitter Delicious Facebook Digg Stumbleupon Favorites More