Cổng Chánh Môn tại Tòa Thánh Tây Ninh

Thiện Tâm Cao Đài trang Kinh Sách và Giáo Lý Cao Đài

Tòa Thánh Tây Ninh

Thiện Tâm Cao Đài trang Kinh Sách và Giáo Lý Cao Đài

Một Thời Cúng của tín đồ Cao Đài

Thiện Tâm Cao Đài trang Kinh Sách và Giáo Lý Cao Đài

Chánh Điện và Quả Càn Khôn tại Bát Quái Đài

Thiện Tâm Cao Đài trang Kinh Sách và Giáo Lý Cao Đài

Tòa Thánh Tây Ninh về Đêm

Thiện Tâm Cao Đài trang Kinh Sách và Giáo Lý Cao Đài

Thứ Bảy, 7 tháng 4, 2012

Thánh Giáo Của Đức Diêu Trì Kim Mẫu

Đàn cơ tại Thảo Xá H. Cung,
ngày 15-11-Tân Mùi (dl 23-12-1931)
Phò loan : Phạm Hộ Pháp - Bảo Văn Pháp Quân .

DIÊU TRÌ KIM MẪU
THI

     Thiếp chào chư Hiền đồ Nam Nữ.
     Có Từ Bi giá ngự, Thiếp nhượng cho Người, mà Người nhượng lại cho Thiếp giáng trước giáo hóa đôi điều. Thiếp phải tuân mạng.
     Chư Hiền đồ bình thân.

                                                                 

Từ Hỗn độn Chí Tôn hạ chỉ,
Cho Thiếp quyền quản Khí Hư Vô,
Lấy Âm quang tạo phách tăng đồ, Muôn vật cả lo cho sanh hóa.
Nuôi nấng lấy xác thân hòa hỏa,
Thuận Âm Dương căn quả hữu vi,
Chưa ai vào đến cõi trần nầy,
Chẳng thọ lấy Chơn Thần tay Thiếp.
Sanh dưỡng đã biết bao căn kiếp,
Rồi dắt dìu cho hiệp với CHA.
Kìa mớm cơm vú sữa cũng là,
Sanh một kiếp người ta đáng mấy !
Dầu hài cốt trăm năm cũng vậy,
Khối tình thương chẳng lấy chi nhiều.
Huống tạo Thiên đùm bọc chắt chiu,
Sanh một đứa liều ngàn thế kỷ.
Chịu mất trẻ cũng vì Tà mị,
Cướp con thương bỏ vị quên ngôi,
Ôi ! Thương nhiều phen phải chịu ngậm ngùi,
Thấy thân trẻ nổi trôi biển khổ.
Trân trọng lấy hình hài dơ ố,
Còn thiêng liêng vô số tiếc thương,
Hằng trông mong con đặng phi thường,
Đem vào đặng con đường Hằng Sống.
Kể từ trước Thiếp là hình bóng,
Biết thương con chẳng mộng con thương,
Đạo dìu Đời bởi Thiếp lo lường,
Trên mới thuận khoáng trương phổ tế.
Kể từ trước Đạo còn bị bế,
MẸ thương con chẳng thế dắt dìu,
Nay cõi trần nghiệt chướng giảm tiêu,
Ngọc Hư định đã nhiều phép cứu.
Thiếp từ đặng Phái Vàng chí bửu,
Lịnh Chí Tôn khai mối Tam Kỳ,
Hằng ngày lo cho đám Nữ nhi,
Chẳng đủ trí sánh bì Nam tử.
Ơn nhờ có con là Long Nữ,
Đến thay thân Thiên sứ Từ Hàng,
Đùm bọc em, con rán bước một đàng,
Đặng cho MẸ dễ dàng cứu rỗi.
Kìa Cực Lạc Niết Bàn đem đổi,
Lấy thân phàm làm mối giải oan,
MẸ trông con về cảnh an nhàn,
Ở trần thế muôn ngàn sầu thảm.
Cõi Thiên vị cho con còn dám,
Huống dạy khuyên mô phạm căn tu,
Chỉnh tiếc con chẳng rõ hiền ngu,
Đặng tự định công phu trọn phận.
Con thì đứa đường đời lẩn bẩn,
Con thì hay vay trở cơ mầu,
Mối huyền vi nào rõ cao sâu,
Cứ đeo đẳng mạch sầu nguồn thảm.
Con ví biết mình cao bực phẩm,
Thì phải toan cho dám phế đời,
Các em con chỉ để con ngươi,
Coi con bước mấy dời nối gót.
Lời cần yếu MẸ than cho trót,
Muốn dạy em, con khá xót xa chừng,
Phải hằng ngày ở dựa bên lưng,
Nhắc từ chuyện, khuyên răn từ việc.
Cửu Nương vốn nhọc nhằn chẳng tiếc,
Chỉ trách con chưa biết nhập trường,
Phải hiểu rằng lòng MẸ hằng thương...

THĂNG





Blog Thiện Tâm !!! Chia Sẽ Miễn Phí Tài liệu Và Thánh Giáo Những Lời dạy Đạo...Cho Chư Quý Đạo Tâm Và Nhơn Sanh Tu Học...


Trước vốn thương, sau cũng thương

Một lòng nhơn đức giữ cho thường.

Trông ơn Thương Đế tuông rời rộng,

Sum hiệp ngày sau cũng một trường.

****

Dạy trẻ con toan trước dạy mình,

Cái công giáo hóa cũng đồng sinh.

Đạo trời tua biết rằng đời trọng

Một điểm quang minh một điểm linh

 

Chủ Nhật, 1 tháng 4, 2012

Tiểu sử của Tam Thánh

Tiểu sử của Tam Thánh

Tam Thánh đứng đầu Bạch Vân Động gồm :
1. Thanh Sơn Đạo Sĩ : Ngài giáng trần ở VN là Trạng Trình Nguyễn bỉnh Khiêm (1491-1585).
2. Nguyệt Tâm Chơn Nhơn : Ngài giáng trần tại nước Pháp là đại văn hào Victor Hugo (1802-1885).
3. Trung Sơn Chơn nhơn : Ngài giáng trần ở Trung Hoa là nhà cách mạng Tôn dật Tiên,tức Tôn văn (1866-1925). Sau đây là Tiểu sử chi tiết của 3 vị Thánh kể trên.



Tiểu sử THANH SƠN ÐẠO SĨ
Trạng Trình Nguyễn bỉnh Khiêm

Thanh Sơn Đạo Sĩ, cũng gọi là Thanh Sơn Chơn Nhơn, là Thánh hiệu của Trạng Trình Nguyễn bỉnh Khiêm (1491-1585), người Việt Nam. Tiền kiếp của Ngài là Bạch Vân Hòa Thượng ở bên Tàu, mà chơn linh của Bạch Vân Hòa Thượng là một chiết linh của Từ Hàng Bồ Tát.
Sau đây là Tiểu sử của Trạng Trình Nguyễn bỉnh Khiêm, trích trong quyển sách "Công Dư Tiệp Ký" của Vũ Phương Đề, dịch giả Tô Nam Nguyễn đình Diệm.
Ông Nguyễn bỉnh Khiêm, Đạo hiệu là Bạch Vân Cư Sĩ, người làng Trung Am huyện Vĩnh Lại. Tiên tổ ngày xưa tu nhân tích đức đã nhiều (nay không thể khảo cứu được), chỉ biết từ đời cụ Tổ được tập phong Thiếu Bảo Tư Quận Công, mỹ tự là Văn Tĩnh, cụ Bà được phong Chính Phu Nhân Phạm thị Trinh Huệ, nguyên trước các cụ lập gia cư ở nơi có núi sông bao bọc, hợp với kiểu đất Cao Biền.
Phụ thân được tặng phong Thái Bảo Nghiêm Quận Công, mỹ tự là Văn Định, Đạo hiệu là Cù Xuyên Tiên Sinh, nguyên người học rộng tài cao, lại có đức tốt, được sung chức Thái Học Sinh.
Thân mẫu họ Nhữ, được phong Từ Thục Phu Nhân, nguyên người ở Ân Tử Hạ, thuộc huyện Tiên Minh, là con gái quan Hộ Bộ Thượng Thư Nhữ văn Lan. Bà vốn là người thông minh, học rộng văn hay, lại tinh cả môn tướng số, ngay thời Hồng Đức mà bà đã tính được rằng : Vận mệnh nhà Lê chỉ sau 40 năm nữa thì sẽ suy đồi. Vì có một chí hướng phò vua giúp nước của bậc trượng phu, muốn chọn một người vừa ý mới chịu kết duyên, nên đã chờ ngót 20 năm trời, khi gặp Ông Văn Định có tướng sinh được quí tử nên bà mới lấy.
Nhưng lại gặp một trang thiếu niên trong lúc sang bến đò Hàn thuộc con sông Tuyết giang, thì Bà ngạc nhiên than rằng : Lúc trẻ chẳng gặp, ngày nay tới đây làm gì! Những người theo hầu không hiểu ra sao, cầm roi đánh đuổi thiếu niên ấy đi, rồi sau Bà hỏi lại tánh danh, mới biết người ấy là Mạc Đăng Dung, khiến Bà phải sanh lòng hối hận đến mấy năm trời.
Tiên sinh sanh vào năm Hồng Đức thứ 21 (tức năm Tân Hợi 1491), lúc sơ sanh, vóc người có vẻ hùng vĩ, khi chưa đầy năm đã biết nói. Một hôm, vào buổi sáng sớm, Văn Định đang bế cậu ở trên tay, bỗng thấy cậu nói ngay lên rằng : "Mặt Trời mọc ở phương Đông." Ông lấy làm lạ ! Rồi năm lên 4, thì Phu nhân dạy cậu học kinh truyện, hễ dạy đến đâu là cậu thuộc lòng đến đó, và thơ quốc âm cậu đã nhớ được đến mấy chục bài.
Lại một hôm Bà đi vắng, Ông ở nhà bày trò kéo dây đùa với lũ trẻ, nhân đọc bỡn một câu rằng : "Nguyệt treo cung, Nguyệt treo cung", rồi Ông muốn đọc tiếp câu nữa nhưng chưa nghĩ kịp thì cậu đứng bên đọc luôn ngay rằng : " Vén tay Tiên, nhẫn nhẫn rung".
Ông thấy cậu mẫn tiệp như vậy thì có ý mừng thầm, đợi khi Bà về thuật lại cho nghe. Bà lấy làm bất mãn nói với Ông rằng : Nguyệt là tượng bề tôi, cớ sao Ông lại dạy con mình như thế ?
Ông cả thẹn xin lỗi, nhưng Bà vẫn không nguôi giận, bỏ về ở bên cha mẹ đẻ, cách ít lâu thì mất.
Lại có truyền ngôn rằng : Lúc Ông còn để chỏm, cùng với lũ trẻ ra tắm ở bến đò Hàn, khi ấy có chú thuyền buôn người Tàu nhìn thấy tướng mạo của Ông, chú bảo với mọi người rằng, cậu bé nầy có tướng rất quí, chỉ hiềm một nỗi là da hơi thô, về sau chỉ làm đến Trạng nguyên Tể Tướng mà thôi. Vì thế nên ai cũng đoán chắc rằng, Ông sẽ là bậc tể phụ của quốc gia sau nầy.
Như Ông lúc còn niên thiếu, học vấn sở đắc ngay tự gia đình, đến khi lớn tuổi, nghe nói có quan Bảng Nhãn Lương đắc Bằng, nổi tiếng văn chương quán thế, Ông bèn tìm đến để xin nhập học.
Lương Công là người làng Hội Trào, thuộc huyện Hoằng Hóa, lúc Ngài phụng mệnh sang sứ nhà Minh, có học được phép Thái Ất Thần Kinh của người cùng họ, tức là dòng dõi của Lương Nhữ Hốt (Ông Hốt trước hàng nhà Minh, được phong tước là Lãng Lăng Vương). Lương Công rất tinh thông về lẽ huyền vi, đem truyền lại cho Ông, đến khi Ngài bị ốm nặng, lại đem con là Lương hữu Khánh ký thác với Ông, Ông săn sóc dạy dỗ chẳng khác con mình, sau nầy ông Khánh cũng được thành đạt.
Những năm Quang Thiệu (1516-1526), gặp lúc loạn lạc, Ông về ẩn cư để dạy học trò, lấy Đạo làm vui, chẳng cầu danh tiếng, nhưng sang đến thời đầu niên hiệu Thống Nguyên (tức Lê Hoàng Đệ Thung) thì Trịnh Tuy và Mạc Đăng Dung cũng đều có ý hiếp chế Thiên tử để sai khiến chư hầu, hai bên gây cuộc nội chiến, khiến trong nước chịu cảnh lầm than, lúc ấy Ông có cảm hứng một bài thơ rằng :

      Thái hòa vũ tru ï bất Ngu Chu,
      Hỗ chiến giao tranh tiếu lưỡng thù.
      Xuyên huyết sơn hài tùy xứ hữu,
      Uyên ngư tùng trước vị thùy khu.
      Trùng hưng dĩ bốc độ giang mã,
      Hậu hoạn ưng phòng nhập thất khu
      Thế sự đáo đầu hưu thuyết trước,
      Túy ngâm trạch bạn nhậm nhàn du
      . DỊCH :
      Thái hòa chẳng thấy cảnh Ngu Chu,
      Hai phái thù hằn chém giết nhau.
      Nhuộm máu phơi xương đà khắp chốn,
      Xua chà đuổi sẻ vị ai đâu ?
      Trùng hưng duỗi ngựa qua sông trước,
      Hậu hoạn phòng beo tiến cửa sau.
      Ngán nỗi việc đời thôi phó mặc,
      Say rồi dạo suối hát vài câu.
Sở dĩ có bài thơ trên vì Ông biết rõ nhà Lê sẽ được trung hưng, dẫu rằng ngày nay tạm phải tìm kế an thân, nhưng rồi sau đây tất nhiên sẽ lại khôi phục được nước, mà câu : Beo tiến cửa sau, chỉ là nói kín đó thôi.
Quả nhiên về sau, nhà Lê trung hưng, bốn phương trở lại yên tịnh, bấy giờ bạn hữu đều khuyên Ông ra làm quan, đến năm 44 tuổi Ông mới chịu ra ứng thí, khoa hương thi ấy, Ông được đỗ đầu, rồi năm sau, tức là năm thứ 6 đời nhà Mạc (1535), lại ra tỉnh thì được đỗ thứ nhứt, khi vào đình đối, lại đỗ Tấn Sĩ đệ nhứt danh, được bổ chức Đông Các Hiệu Thư, trong thời Thái Tông nhà Mạc, Ông có làm 2 bài thơ " Xuân thiên ngự tửu", đều được hạng ưu, rồi thăng chức Hữu Thị Lang Hình Bộ, sau thời gian ngắn lại thăng chức Tả Thị Lang, kiêm chức Đông Các Đại Học Sĩ.
Trong 8 năm ở triều, Ông có dâng sớ hạch tội 18 kẻ nịnh thần, xin đem chém để làm gương, bởi vì bổn tâm của Ông chỉ muốn làm trăm họ đều được an vui, những người tàn tật mù lòa cũng cho họ được có nghề ca hát bói toán, nhưng rồi gặp phải con rễ tên là Phạm Dao ỷ thế lộng hành, vì sợ liên lụy đến mình nên Ông cáo quan xin về trí sĩ.
Thế là giữa năm Quảng Hòa thứ 2 (1542), Ông mới 52 tuổi đã xin trí sĩ, treo mũ về làng, dựng Am Bạch Vân ở phía tả chỗ làng Ông ở và vẫn lấy hiệu là Bạch Vân Cư Sĩ. Khi ấy Ông có bắc 2 chiếc cầu Nghinh Phong và Tràng Xuân để khi hóng mát, dựng một ngôi quán gọi là Trung Tân ở bến Tuyết giang, có bia để ghi sự thực.
Ngoài ra, Ông còn tu bổ chùa chiền, có lúc cùng các lão tăng đàm luận, có khi thả một con thuyền dạo chơi Kim Hải, Úc Hải để xem đánh cá. Còn chỗ danh sơn thắng cảnh, như núi An Tử, Ngọa Vân, Kính Chủ, Đồ Sơn, nơi nào Ông cũng chống gậy trèo lên, thừa hứng ngâm vịnh, quên cả sớm chiều; mỗi khi thấy chỗ rừng cây chim đổi giọng ca thì Ông hớn hở tự đắc, quả là một vị Lục địa Thần Tiên.
Nhưng trong thời gian dưỡng lão ở chốn gia hương, tuy rằng không dự quốc chính, thế mà họ Mạc vẫn phải kính trọng như một ông thầy, những việc trọng đại thường sai sứ giả về hỏi, có khi lại đón lên kinh thành để hỏi, Ông đều ung dung chỉ dẫn, nhờ đó bổ ích rất nhiều. Xong rồi Ông lại trở về am cũ, họ Mạc ân cần giữ lại cũng chẳng được, về sau phải liệt vào hạng nhứt công thần, phong tước là Trình Tuyền Hầu, dần dần thăng đến Lại Bộ Thượng Thư Thái Phó Trình Quốc Công. Ông Bà nhị đại cũng được phong ấm, 3 người thê thiếp với 7 người con cũng theo thứ tự phong hàm.
Thế rồi đến năm Cảnh Lịch thứ 3 thời nhà Mạc (tức Mạc Phúc Nguyên 1550), Thư Quốc Công , người xã Khoa Hoạch huyện Thanh Oai tên là Nguyễn Thiến, con là Quyện và Mỗi về hàng Quốc triều, Ông có làm một bài thơ gởi cho Thiến có những câu rằng :

      "Cố ngã tồn cô duy nghĩa tại,
      Tri quân xử biến khởi tâm cam."
      DỊCH :
      Ta giúp mồ côi vì trọng nghĩa,
      Ông khi xử biến há cam lòng.
      Lại có câu rằng :
      "Khí vận nhất chu ly phục hợp,
      Trường giang khởi hữu hạn đông nam."

      DỊCH :
      Vận chuyển một vòng tan lại hợp,
      Trường giang đâu có hạn đông nam.
Thiến xem thơ, trong lòng cảm thấy bứt rứt, còn Quyện cũng là tướng tài, luôn luôn lập được chiến công. Phúc Nguyên lấy làm lo ngại, hỏi kế nơi Ông thì Ông thưa rằng : Cha Quyện với thần là chỗ bạn thân từ trước, và đã ở trong nhà thần, hiện nay được ra trấn thủ Thiên Trường, ở vào tình thế bán tín bán nghi, nay muốn dùng kế bắt lại, thực chẳng khác chi thò tay vào túi để lấy một vật gì mà thôi.
Rồi Ông xin với Mạc Phúc Nguyên trao cho 100 tráng sĩ, sai đi phục sẵn ở bên bắc ngạn. Ông gởi thơ cho Quyện, hẹn sang bên thuyền nâng chén rượu nhạt kể lại tình xưa, rồi nhân lúc đã quá say, phục binh nổi dậy bắt cóc đem về nam ngạn, Ông mới đem ân nghĩa quốc gia để khuyên nhủ. Quyện cảm động khóc nức nở, Ông bèn dẫn về qui thuận họ Mạc, rồi sau trở thành một viên danh tướng, nhờ đó nhà Mạc duy trì thêm được mấy chục năm nữa.
Trong thời gian ấy, Đức Thế Tổ (Trịnh Kiểm) đã dấy nghĩa binh , thanh thế vang khắp xa gần, đánh nhau mấy trận
ở cửa Thần Phù. Khiêm Vương Mạc Kính Điển đại bại, Thế Tổ thừa cơ tiến binh theo đường Tây Sơn ra đánh Kinh Bắc, khiến cho trong ngoài nơm nớp lo sợ, Ông hiến kế sách hư hư thực thực, họ Mạc theo đó thi hành, bấy giờ trong cõi mới tạm ổn định.
Mạc Mậu Hợp, năm Diên Thành thứ 8 (1585), tức năm Ất Dậu tháng 11 thì Ông lâm bệnh. Mậu Hợp sai sứ đến vấn an và hỏi về quốc sự. Ông chỉ trả lời rằng : "Tha nhựt quốc hữu sự cố, Cao Bằng tuy tiểu khả duyên sổ thế." Nghĩa là : Sau nầy quốc gia hữu sự thì đất Cao Bằng tuy nhỏ cũng giữ thêm được mấy đời.
Quả nhiên, cách 7 năm sau thì họ Mạc mất, rồi các Chúa nhà Mạc như Càn Thống, Long Thái, Thuận Đức, Vĩnh Xương, rút lui lên giữ Cao Bằng được 70 năm, nghĩa là sau 3, 4 đời thì mới hoàn toàn bị diệt, coi đó thì lời nói của Ông dự đoán chẳng sai chút nào.
Nhưng rồi trong tháng ấy, giữa ngày 28 thì Ông tạ thế, hưởng thọ 95 tuổi, học trò suy tôn hiệu là "Tuyết Giang Đại Phu", phần mộ ở trên một cái gò đất trong làng. . . . . . . . . . .
Năm Thuận Bình thứ 8 (1556), Lê Trung Tông mất, không có hoàng nam nối ngôi. Thế Tổ (Trịnh Kiểm) do dự không biết lập ai, hỏi Trạng nguyên Phùng khắc Khoan, cũng không quyết định nổi, nên mới phải sai gia nhân ngầm đem lễ vật về tận Hải Dương để hỏi, Ông không trả lời mà chỉ quay lại bảo các gia nhân rằng : "Vụ nầy lúa không được mấy, chỉ tại thóc giống không tốt, vậy các ngươi phải đi tìm giống cũ để mà gieo mạ." Nói xong, Ông lại lên xe ra chùa, sai các chú tiểu quét dọn đốt hương, ngoài ra không hề đá động gì đến chuyện khác, bởi vì Ông đã hơi tỏ cho biết cái thâm ý là : Cứ việc thờ Phật thì được ăn oản.
Rồi Trạng Phùng thấy thế vội vàng về báo, Thế Tổ hiểu ngay, bèn đón Anh Tông (Lê duy Bang) về lập, tình thế trong nước mới được ổn định.
Trong thời gian ấy, Đoan Quốc Công Nguyễn Hoàng là con Chiêu Huân Tĩnh Vương, đương lúc ở trong tình thế nguy ngập vì sợ không thoát khỏi tay Trịnh Kiểm, thân mẫu của người vốn dòng họ Phạm đã được tôn là Thánh mẫu, nguyên quán ở làng Phạm Xá thuộc huyện Tứ Kỳ, với Ông là chỗ đồng hương, nên thường bí mật sai người về làng nhờ Ông chỉ giúp cho con trai bà một đường sống. Sứ giả đặt gói bạc nén ở trước mặt Ông, rồi bái lạy lia lịa.
Ông thấy sứ giả năn nỉ mãi, nhưng vẫn không nói gì, rồi đứng phắt lên, tay cầm chiếc gậy, thủng thỉnh ra lối vườn sau, là nơi có hơn 10 tảng đá xanh xếp thành một dãy núi giả (non bộ) quanh co, trước núi lúc ấy có những đàn kiến dương men theo tảng đá leo lên, Ông ngắm nghía chúng một lát rồi mỉm cười đọc một câu :"Hoành sơn nhất đái vạn đại dung thân", nghĩa là : Một dãy Hoành sơn có thể dung thân được.
Sứ giả hiểu ý trở về thuật lại với Nguyễn Hoàng. Hoàng bèn xin vào trấn thủ Quảng nam, đến nay hùng cứ cả một vùng đó. . . . . . . . .
Nói về môn sinh của Ông, thực sự không biết bao nhiêu mà kể, nhưng nói riêng về những người có tiếng tăm lừng lẫy thì có : Phùng khắc Khoan, Lương hữu Khánh, Nguyễn Dữ, và Trương Thì Cử, đều đã nhờ ơn truyền thụ số học từng đi đến chỗ uyên thâm, và sau đều là các bậc danh thần trong thời Trung hưng.
Nhắc lại khi Phùng khắc Khoan còn theo học Bạch Vân Tiên Sinh, lúc thành tài rồi, bỗng có một đêm Tiên Sinh đến chỗ nhà trọ của Khoan, Tiên Sinh gõ cửa bảo rằng : Gà gáy rồi đấy, sao anh chưa dậy nấu ăn mà còn nằm ỳ ở đó.
Khắc Khoan hiểu rõ ý thầy nên vội thu xếp lẻn vào vùng Thanh Hóa, nhưng lại ẩn cư với Ông Nguyễn Dữ, chớ chưa chịu ra làm quan. Trong thời gian nhàn rỗi ấy, Nguyễn Dữ có soạn ra bộ Truyền Kỳ Mạn Lục, được Ông phủ chính rất nhiều, cho nên mới thành ra một cuốn Thiên cổ kỳ bút. Coi đó, ta thấy việc đào tạo nhân tài để giúp cho bổn triều lúc ấy, phần lớn là nhờ ở Tiên Sinh vậy.
Còn nói về cá nhân của Tiên Sinh, ta thấy Tiên Sinh là người có lòng khoáng đạt, tư chất cao siêu, xử sự hồn nhiên, không hề có chút cạnh góc, ai hỏi thì nói, không hỏi thì thôi, mà đã nói ra câu gì, thực là bất di bất dịch, dẫu rằng ở nơi thôn dã vui cảnh cúc tùng, hơn 40 năm mà lòng vẫn không quên nước, tấc dạ ưu thời mẫn thế thường thấy chan chứa trong các vần thơ, văn chương viết rất tự nhiên, không cần điêu luyện, giản dị mà rất lưu loát, thanh đạm mà nhiều ý vị, câu nào cũng có quan hệ đến sự dạy đời.
Riêng về thơ phú quốc ngữ, Tiên sinh soạn cũng rất nhiều, trước đã xếp thành một tập gọi tên là Bạch Vân Thi Tập, tất cả đến hơn ngàn bài, ngày nay sót lại độ hơn một trăm, và một thiên Trung Tân Quán Phú , còn thi thì thất lạc hết cả. Nhưng xem đại lược cũng toàn những thể gió mát trăng thanh, dẫu ngàn năm sau vẫn còn có thể tưởng tượng thấy vậy. Thử coi những câu :

      Cao khiết thùy vi thiên hạ sĩ ?
      An nhàn ngã thị địa trung Tiên
      . Nghĩa là :
      Cao sạch ai làm thiên hạ sĩ ?
      Thanh nhàn ta cũng địa trung Tiên.
Đó là mấy câu Tiên sinh tự thuật chí hướng của mình thì đủ rõ.
Nói về gia đình Tiên sinh có 3 thê thiếp. Bà Chánh thất họ Dương hiệu Từ Ý, quê ở Hải Dương, cũng thuộc bổn huyện, nguyên là ái nữ của quan Hình Bộ Tả Thị Lang Dương đắc Nhan. Thứ Phu nhân họ Nguyễn, hiệu là Nhu Tĩnh. Á Phu nhân họ Nguyễn hiệu Vi Tĩnh. Con cái cộng 12 người, 7 trai 5 gái. Con trưởng hiệu là Hàn Giang Cư Sĩ, được tập ấm hàm Trung Trinh Đại Phu, rồi sau làm đến Phó Hiến. Con thứ 2 hiệu là Túy Am Tiên Sinh, phong hàm Triều Liệt Đại Phu, tước Quảng Nghĩa Hầu. Con thứ 3 phong hàm Hiển Cung Đại Phu, tước Xuyên Nghĩa Bá, con thứ 4 là Thuần Phu, phong hàm Hoằng Nghị Đại Phu, tước Quảng Đô Hầu, con thứ 5 là Thuần Đức, tước Bá Thứ Hầu, con thứ 6 là Thuần Chính tước Thắng Nghĩa Hầu. Tất cả mấy người con đều có lập được quân công.
Rồi sau Hàn Giang sinh Thiết Đức, Thiết Đức sinh Đạo Tấn, Đạo Tấn sinh Đạo Thông, Đạo Thông sinh Đăng Doanh, Đăng Doanh sinh Thì Đương. Lúc ấy Thì Đương đã 65 tuổi, sinh được 3 người con trai, đều là cháu 8 đời của Tiên Sinh vậy.
Năm Vĩnh Hựu nguyên niên (tức là năm Ất Mão 1735), người trong làng nhớ tới thịnh đức của Tiên sinh, có dựng 2 tòa miếu ngay ở nền nhà của Tiên sinh ngày trước, rồi người hàng Tổng vì nhớ ơn đức cũng đến Xuân Thu hằng năm tế tự Tiên sinh; còn người trong họ là các Ông Nguyễn hữu Lý, vì sợ sau nầy gia phả sẽ bị thất lạc, nên có nhờ ta soạn một bài tựa. Ta đây sinh sản ở đất Hồng Châu, đối với Tiên sinh ngày trước , dẫu là đồng hương, nhưng nay cách đã 190 năm rồi thì còn biết đâu mà nói. . . . . . . . . .
Nhưng ta nhận thấy Kỳ Lân, Phượng Hoàng đâu phải là vật thường thấy ở trong vũ trụ, tất nhiên nó phải ra chơi ở vườn nhà Đường và núi nhà Chu thì nó mới là điềm tốt.
Còn như Tiên sinh, sẵn có tư chất thông tuệ, thêm vào Đạo học Thánh Hiền, ví thử đắc thời để mà thi thố sở học, chắc sẽ tạo ra cảnh trị bình, thay đổi phong tục phù bạc thành ra lễ nghĩa văn minh. Thế mà trái lại, một người có đức đủ phò tá vương, lại sinh ra giữa thời bá giả, thành ra sở học trở nên vô dụng, thực đáng tiếc thay !
Tuy nhiên, đời dùng thì làm, đời bỏ thì ẩn. Đối với Tiên sinh, dù chẳng đắc dụng cũng có hề chi.
Ta rất hâm mộ Tiên sinh về chỗ đó. Thử coi sinh trưởng trên đất nhà Mạc, khi thử ra làm quan để hành sở học, thì cũng muốn bắt chước Đức Khổng Phu Tử vào yết kiến Công Sơn Phất Nhiễu, rồi khi biết rằng không thể giúp được thì vội bỏ đi, lại muốn theo trí sáng của Trương Lương để hỏi thăm Xích Tùng Tử.
Nay đọc những văn chương còn lại, khác chi nghe thấy những tiếng ném ngọc gieo vàng, rực rỡ như mây năm sắc, sáng sủa như vừng thái dương, mà cái phong vị tắm sông Nghi, hóng mát cầu Vũ Vu của Ông Tăng Điểm ngày trước, và cái phong thú yêu sen, hái lan của tiền nho ngày xưa, hình như ta được nhìn thấy Tiên sinh và Ta được bái kiến ở trong Giáng Trướng.
Bởi vì Tiên sinh chẳng những chỉ tinh thâm một môn Lý học, biết rõ dĩ vãng cũng như tương lai, mà sự thực thì trăm đời sau cũng chưa thấy có ai hơn được vậy.
Ôi ! Ở trong thiên hạ, các bậc quân vương, các vị hiền giả, hỏi có thiếu chi, nhưng chỉ có lúc sống thì được phú quí vinh hoa, còn sau khi mất thì những cái đó lại cũng mai một đi với thời gian, hỏi còn ai nhắc nữa ?
Còn như Tiên sinh, nói về thế hệ đã truyền đến 7, 8 đời, gần thì sĩ phu dân thứ ngưỡng vọng như bóng sao Đẩu trên trời, dẫu cách ngàn năm cũng còn tưởng tượng như một buổi sớm. Xa thì sứ giả Thanh triều tên Chu Xán, nói đến nhân vật Lĩnh Nam cũng đã có câu : "An-Nam Lý học hữu Trình Tuyền" , tức là công nhận về môn Lý học của nước An-Nam chỉ có Trình Tuyền là người số một, rồi chép vào sách truyền lại bên Tàu.
Như thế, đủ thấy Tiên sinh quả là một người rất mực của nước ta về thời trước vậy.
Hậu học Ôn Đình Hầu Võ Khâm Lâm cẩn thuật.
GHI THÊM CHO RÕ :
Cụ Nguyễn bỉnh Khiêm, trước được phong là Đông Các Đại Học Sĩ, sau được phong tước là : Trình Tuyền Hầu, rồi dần dần thăng lên Lại Bộ Thượng Thư Thái Phó Trình Quốc Công.
Cụ mất ngày 28 tháng 11 năm Ất Dậu (1585), thọ 95 tuổi.
Cụ Trạng Trình Nguyễn bỉnh Khiêm, ngoài việc dùng thi ca ngâm vịnh làm thú tiêu khiển, Cụ còn muốn dùng văn chương để giáo hóa người đời, truyền bá những tư tưởng đạo đức, giác ngộ dân chúng, vì trước mắt Cụ, hoàn cảnh đất nước thật điêu tàn, chiến tranh nồi da xáo thịt, chém giết nhau vì quyền lợi riêng tư, không còn biết đạo đức nhơn nghĩa. Cụ đã thực hành chủ trương "Văn dĩ tải Đạo" của Thánh Hiền.
Cụ có viết một tập thơ chữ Hán gọi là " BAÏCH VÂN AM THI TẬP " . Tập thơ nầy gồm hằng ngàn bài thơ vịnh cảnh, tả tình, hiện đã bị thất lạc gần hết.
Vê thơ Nôm, Cụ có viết tập "BAÏCH VÂN QUỐC NGỮ THI TẬP ", gồm nhiều bài thi Đường luật và Cổ phong, với những chủ đề như sau :
    - Thú ẩn cư, an nhàn tự tại,
    - Than trách đời nhân tình thế thái,
    - Khuyên răn người đời.
Ngoài ra, Cụ Trạng Trình còn lưu truyền lại cho con cháu một quyển SẤM KÝ trường thiên, mà con cháu Cụ sau nầy chép vào cuốn BAÏCH VÂN GIA PHẢ BÍ TRUYỀN TẬP, gọi là SẤM TRẠNG TRÌNH.
+ Sau đây xin chép lại vài bài thi tiêu biểu trong cuốn Bạch Vân Quốc Ngữ Thi Tập :
        THÚ THÔN CƯ
        Một mai một cuốc một cần câu,
        Thơ thẩn mặc ai vui thú nào.
        Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ,
        Người khôn người đến chốn lao xao.
        Thu ăn măng trúc, Đông ăn giá,
        Xuân tắm hồ sen, Hạ tắm ao.
        Rượu đến gốc cây ta sẽ nhấp,
        Nhìn xem phú quí tợ chiêm bao. THẾ GIAN BIẾN ĐỔI
        Thế gian biến đổi vũng nên đồi,
        Mặn lạt chua cay lẫn ngọt bùi.
        Còn tiền còn bạc còn đệ tử,
        Hết cơm hết gạo hết ông tôi.
        Xưa nay vẫn trọng người chân thực,
        Ai nấy nào ưa kẻ đãi bôi.
        Ở thế mới hay người thế bạc,
        Giàu thì tìm đến, khó tìm lui.
        CỦA NẶNG HƠN NGƯỜI
        Đời nầy nhân nghĩa tợ vàng mười,
        Có của thì hơn hết mọi lời.
        Trước đến tay không nào thiết hỏi,
        Sau vào gánh nặng lại vui cười.
        Anh anh chú chú mừng hơ hải,
        Rượu rượu chè chè thết tả tơi.
        Người, của, lấy cân ta sẽ nhấc,
        Mới hay rằng của nặng hơn người. ,
        + Sau đây xin trích vài đoạn trong SẤM TRẠNG TRÌNH
        CẢM ĐỀ
        Thanh nhàn vô sự là Tiên,
        Năm hồ phong nguyệt nổi thuyền buông chơi.
        Cơ Tạo Hóa, phép đổi dời,
        Đầu non mây khói tỏa,
        Mặt nước cánh buồm trôi.
        Hươu Tần mặc kệ ai xua đuổi,
        Lầu Hán trăng lên ngẫm mệnh Trời.
        Tuổi già thua kém bạn,
        Văn chương gởi lại đời.
        Dở hay nên tự lòng người cả,
        Nghiên bút soi hoa chép mấy lời.
        Bí truyền cho con cháu,
        Dành hậu thế xem chơi.

        SẤM KÝ
        Nước Nam từ họ Hồng bàng,
        Biển dâu cuộc thế, giang san đổi dời.
        Từ Đinh Lê Lý Trần thuở trước,
        Đã bao đời ngôi nước đổi thay.
        Núi sông Thiên định đặt bày,
        Đồ thơ mấy quyển, xem nay mới rành.
        . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
        Kìa kìa gió thổi lá rung cây,
        Rung Bắc rung Nam, Đông tới Tây.
        Tan tác kiến kiều an đất nước,
        Xác xơ cổ thụ sạch am mây.
        Lâm giang nổi sóng mù thao cát,
        Hưng địa tràn dâng hóa nước đầy.
        Một ngựa một yên ai sùng bái,
        Nhắn con nhà Vĩnh Bảo cho hay.
        Tiền ma bạc quỉ trao tay,
        Đồ Môn Nghệ Thái dẫy đầy can qua.
        Giữa năm hai bảy mười ba,
        Lửa đâu mà đốt Tám Gà trên mây.
        . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
        Cửu cửu Càn Khôn dĩ định,
        Thanh minh thời tiết hoa tàn.
        Trực đáo dương đầu mã vĩ,
        Hồ binh bát vạn nhập Tràng an.
        Nực cười những kẻ bàng quan,
        Cờ tan lại muốn toan đường đá xe.
        . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
        Long vĩ xà đầu khởi chiến chinh,
        Can qua xứ xứ khởi đao binh.
        Mã đề dương cước anh hùng tận,
        Thân Dậu niên lai kiến thái bình.
        . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
        Thần Kinh Thái Ất suy ra,
        Để dành con cháu đem ra nghiệm bàn.
        Ngày thường xem thấy quyển vàng,
        Của riêng bảo ngọc để tàng xem chơi.
        Bởi Thái Ất thấy lạ đời,
        Ấy thuở Sấm Trời vô giá thập phân.
        Phú quí hồng trần mộng,
        Bần cùng bạch phát sinh.
        Hoa thôn đa khuyển phệ,
        Mục giả dục nhơn canh.
        Bắc hữu Kim Thành tráng,
        Nam hữu Ngọc Bích Thành.
        Phân phân tùng bách khởi,
        Nhiễu nhiễu xuất đông chinh.
        Bảo giang Thiên Tử xuất,
        Bất chiến tự nhiên thành.
        . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
        Cơ Tạo Hoá phép mầu khôn tỏ,
        Cuộc tàn rồi mới rõ thấp cao.
        Thấy Sấm từ đây chép vào,
        Một mảy tơ hào chẳng dám sai ngoa.
Trong thời ĐĐTKPĐ, Cụ Nguyễn bỉnh Khiêm, Thánh danh là THANH SƠN ÐẠO SĨ, thường giáng cơ dạy đạo nơi Hội Thánh Ngoại Giáo tại Kim Biên (Nam Vang).
Sau đây, xin chép ra 2 bài Thánh giáo quan trọng :
Báo Ân Đường (Nam Vang), đêm 13-8
Bính Thân (dl 17-9-1956) Hợi thời.

Phò loan :
Giám Đạo Lợi, Hữu Phan Quân Thoại.

THANH SƠN ÐẠO SĨ
Bần đạo xin chào Hộ Pháp, Bảo Đạo, và chư Hiền Nam Nữ.
Thắm thoát nền Đại Đạo khai nơi Tần quốc đã 30 năm. Ngày ấy chính Chí Tôn sai Hộ Pháp đến để gieo hột Thánh cốc. Từ ấy những nay thì các tay chấp chánh Đạo quyền nơi nầy không tô bồi thêm, trái lại làm cho phân chia tâm lý. Cớ ấy là chỗ ham quyền trọng vị. Các Chức sắc Thiên phong lãnh Thiên mạng nơi mình không làm xong phận, Ngôi thì ham, quyền thì muốn, mà hành động cho xứng lại không. Thử hỏi họ vưng Thiên mạng đến để làm gì kia chớ ?
Họ phải cho xứng phận là anh, thầy, để gần gũi nhơn sanh, chia việc đau, an ủi điều khổ.
Hôm nay Hộ Pháp đã đến thì cả Chức sắc Thiên phong phải ráng thiệt thi quyền của mình, hư thì bỏ, nên thì để, rửa ráy Thánh thể Đức Chí Tôn cho nên hình. Vậy khá liệu lấy.
Có Quyền Giáo Tông đến. THĂNG.

TÁI CẦU :
Phò loan : Hộ Pháp - Bảo Đạo.
THƯỢNG TRUNG NHỰT Qua chào mấy em.
Khi nảy, Đức Thanh Sơn có ý khuyên mấy em gắng công hành đạo. Chính Qua cũng nhìn nhận mấy em thiếu kém
công nghiệp cùng Đạo. Mấy em Nam Nữ đã thấy rõ vì thế nào mà Chưởng Đạo Nguyệt Tâm đã từ bỏ chức vụ mà mấy em từ thử hay chăng ?
Mấy em nhớ lại coi, từ khi Phong Chí (Giáo Sư Thượng Bảy Thanh) nắm quyền đến nay, sự nghiệp Đạo đã hư hoại thế nào ? Thì cũng do nơi bội phản Hộ Pháp và anh em giành quyền mà sanh ra rối loạn.
Qua nói thiệt cùng mấy em rằng, vì hổ thẹn ấy mà Chưởng Đạo từ chức và hủy bỏ Hội Thánh Ngoại Giáo.
Các em đã hiểu rõ điều ấy. Qua chỉ thương Thanh Sơn mang tiếng phụ phàng, lỗi tình cùng Hộ Pháp. Qua đã nhiều phen cầu xin Nguyệt Tâm Chơn Nhơn tha thứ, nhưng Ngài quyết hẳn, vì cớ là chúng đã mạo danh Bạch Vân Động đặng chia phe phân phái lập quyền đời của họ.
Các em có biết chăng, Đấng đã mang trọn ân của Hộ Pháp là Bạch Vân Hòa Thượng, tức là Đức Thanh Sơn, vì khi lãnh lịnh Ngọc Hư thì người đã hứa rằng : Hộ Pháp trọn quyền sử dụng các Chơn linh Bạch Vân Động. Hôm nay lời hứa ấy đã thất. Qua nhường cơ lại cho Đức Thanh Sơn Chơn Nhơn.
Mấy em sẽ hưởng đặng một điều quí báu. THĂNG.
TÁI CẦU :
THANH SƠN CHƠN NHƠN
Bần đạo trở lại là vì lời kêu nài của Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt. Chư Thiên phong đủ hiểu rõ rằng : Mạng số Việt Nam nó liên quan mật thiết cùng kiếp sanh của Bần đạo là thế nào, và vì lẽ gì mà Bần đạo phải giao trọn quyền điều khiển Bạch Vân Động cho Hộ Pháp.
Bảo Đạo ! Thì Bần đạo cũng đồng tâm bịnh với Hiền Hữu. Cười . . . Bảo Đạo nghe :

        THI :
        Hoành sơn phân nước trót đôi lần,
        Khí số bấy chừ dứt Nguyễn quân.
        Lời sấm đoán văn khi thật quả,
        Tiên tri toán số gẫm không lầm.
        An dân buồn thiếu trang hiền sĩ,
        Bảo quốc vui nhờ đức Thánh nhân.
        Suy thạnh nước nhà do trị loạn,
        Cũng như Đông mãn tới hồi Xuân.
Đọc lại rồi kiếm nghĩa đặng hiểu.
Bần đạo sẽ tái giáng đặng hiệp ý cùng nhau. THĂNG.
Ghi chú về : BAÏCH VÂN ĐỘNG.
Đức Phạm Hộ Pháp giải thích về Bạch Vân Động :
" Xưa nay người ta vẫn coi Nguyệt cầu (Mặt Trăng) là nơi dừng chân của những vị Thánh, Thần, trước khi xuống trần giới (Địa cầu) đầu thai. Các vị đó phải ở lại Nguyệt cầu ít lâu để liên lạc với Địa cầu, để quen lần với đời sống ở thế gian nầy.
Từ cổ, Thần thoại đã mệnh danh Nguyệt cầu là Bạch Vân Động (Quảng Hàn Cung). Cơ giáng ở Âu Châu, mệnh danh là LOGE BLANCHE (Bạch Động).
Giáo chủ của Bạch Vân Động là Bạch Vân Hòa Thượng, miêu duệ của Từ Hàng Đạo Nhơn, dòng dõi Đức Phật Quan Âm.
Bạch Vân Hòa Thượng đã 2 lần giáng trần ở Pháp : Một lần là Hồng Y Giáo Chủ Richelieu, một lần là Quận Công La Roche Foucault.
Ở VN, Ngài giáng trần là Trình Quốc Công Nguyễn bỉnh Khiêm, tức gọi Trạng Trình."




Tiểu sử NGUYỆT TÂM CHƠN NHƠN
Victor Hugo

Nhân ngày vía của Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn tại Tòa Thánh, đêm 22-5-1949 (25-4-Kỷ Sửu), Đức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo nói về Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn như sau :
" Đức Victor Hugo, tự xưng là Nguyệt Tâm Chơn Nhơn, là một Đấng thiêng liêng tại Quảng Hàn Cung.
Khi tái kiếp, Ngài sanh tại thành Besancon, Pháp quốc, nhằm ngày 26-2-1802. Ngài từ trần tại Paris ngày 22-5-1885, hưởng thọ được 83 tuổi.
Từ buổi Đạo khai nơi Tần quốc, thì Ngài giáng cơ với danh hiệu là Chưởng Đạo Nguyệt Tâm, Chưởng quyền Hội Thánh Ngoại Giáo.
Ngài là một nhà thi sĩ trứ danh của nước Pháp trong thế kỷ 19. Lúc còn thiếu thời, Ngài thường châu lưu ở nước Ý, ở nước Tây Ban Nha, kế trở về Paris. Khi lên 10 tuổi thì Ngài đã sẵn có tài thi văn, đến lúc trưởng thành thì những văn từ thi phú của Ngài đều là những tác phẩm lỗi lạc, tình tứ cao thâm, nên trong trường đời, Ngài đã nổi danh là thi bá, đứng đầu các bậc kỳ nhân trong thời buổi ấy. Lần hồi tên tuổi của Ngài đã nêu danh nơi Hàn Lâm Viện và Ngài trở nên một đại công thần danh dự của Pháp triều buổi ấy.
Đến sau cuộc Cách mạng 1848 tại nước Pháp, Ngài đắc cử vào Hạ Nghị Viện để bảo tồn nền chánh trị và luật pháp trong nước. Lúc Ngài lãnh trách nhiệm trọng yếu ấy, Ngài đã lắm phen trổ tài hùng biện mà binh vực quyền lợi
cho dân Pháp với những lẽ công chánh, nhứt là sự tự do. Nước Pháp trong buổi ấy chưa yên, nên cách 3 năm sau, ngày 2-12-1851, lại có cuộc nội biến. Ngài phải buộc lòng từ giã Paris ra ngoại quốc, mãi đến năm 1970 ngày 4-9 Ngài mới trở lại trường chánh trị. Lúc đó Ngài đặng 68 tuổi. Từ ấy đến sau, Ngài đem hết nhiệt tâm mà chuyên lo cần mẫn vì nước vì dân cho đến ngày qui vị.
Trong kiếp sanh của Ngài rất vinh diệu cho nước Pháp, ngoài những chuyện thi văn kiệt tác đối với quê hương dân tộc Pháp, Ngài còn để dấu trong trường chánh trị một danh thể bất hủ.
Vì vậy mà khi Ngài qui vị, đám táng Ngài rất long trọng, quan cữu và linh vị đặng hưởng đặc ân của nước Pháp để vào Công Thần Miếu (Panthéon). Ấy vậy, thật là một vĩ nhân và một đại công thần nước Pháp đó vậy.
Bần đạo cũng nên cho toàn đạo hiểu rồi đừng lầm tưởng chúng ta ngày nay đương tôn sùng lễ bái kỷ niệm một vị vĩ nhân công thần của Pháp như trên đã nói, đó là tôn sùng người Pháp.
Nghĩ vì Ngài cũng có công trình khai đạo từ sơ khai, thọ mạng lịnh Đức Chí Tôn lãnh quyền Chưởng Đạo cầm đầu Hội Thánh Ngoại Giáo, Ngài thường giáng cơ giáo hóa và phong Thánh cho chư Chức sắc Ngoại giáo, huống chi chúng ta ngày nay cả thảy đều đặng hiểu biết tiền kiếp của Ngài trước kia, tái kiếp nước Pháp thì Ngài đã có một kiếp sanh tại nước Việt nam là Đức Nguyễn Du, là một nhà thi sĩ, tác phẩm Truyện Kim Vân Kiều mà ngày nay cả thế giới đều nhận bản tác phẩm ấy là vô giá, nhứt là chúng ta, dân tộc VN, càng vinh hạnh hơn hết."
Sau đây là Tiểu sử chi tiết của Văn hào Victor Hugo :


VICTOR HUGO (1802-1885)

Victor Hugo sanh ngày 26-2-1802 tại Besancon nước Pháp. Khi mẹ cậu sanh ra, cậu rất bé nhỏ và yếu ớt, đã tưởng khó nuôi, nhưng mẹ cậu cố gắng săn sóc và cứu được cậu.
Cha của Victor Hugo là Léopold Hugo, gốc ở Loraine, làm chức Đại Tá trong quân đội dưới triều vua Napoléon.
Mẹ là Sophie Trébuchet, gốc ở Bretagne.
Victor Hugo có 2 người anh tên là : Abel Hugo và Eugène Hugo.
Ông Léopold và bà Sophie đều là người rất tốt, săn sóc các con chu đáo, nhưng tư tưởng và tánh tình lại đối nghịch nhau, ông thì có tư tưởng cộng hòa và tánh ham vui, còn bà thì bảo hoàng và nghiêm khắc.
Ông Léopold thường ở ngoài mặt trận, chỉ huy quân đội, hết đi từ Ý đến Y Pha Nho, dắt theo một cô tình nhân là Catherine Thomas. Bà Sophie sống tại Paris với các con trong một ngôi nhà có vườn rộng, trồng nhiều hoa ở đường Feuillantines.
Một Linh mục già đã hoàn tục tên là Larivière được giao phó cho việc dạy học vỡ lòng cho cậu Victor. Ông thấy cậu đã tự học lấy và đã biết đọc rồi, nên liền dạy ngay cho cậu tiếng La tinh và cậu Victor rất thích học cổ ngữ nầy.
Năm 1811, Léopold Hugo được thăng lên cấp tướng, phong làm Công Tước, cai trị 3 tỉnh ở Y Pha Nho. Bà Sophie dắt con qua ở với chồng, cũng mong cùng chồng hưởng cảnh phú quí. Nhưng 2 ông bà lại bất bình với nhau, bà trở về Paris với 2 con là Eugène và Victor, để Abel ở lại với cha.
Trở về nhà ở Feuillantines, Victor lại học với thầy cũ và đọc rất nhiều sách của J.J. Rousseau, Diderot, Voltaire, … rồi lại tự tập làm thơ. Chẳng cần biết vần, biết cước, cứ làm. Làm xong lại ngâm lên, nghe không êm tai thì sửa, dò dẫm như thế, cậu Victor đã tìm được những qui tắc của một loại thơ 12 cước (Alexandrin).
Năm 1814, cha của Victor trở về Pháp. Ông đưa các con vào trọ học ở một tư thục đường Saint Marguerite. Thế là chấm dứt thời kỳ vui vẻ của tuổi thơ.
Năm 1816, cậu theo học tại trường Trung học Louis Le Grand cùng với anh Eugène. Chương trình học rất nặng, học suốt từ sáng đến chiều, nhưng hễ rảnh lúc nào là cậu Victor làm thơ lúc ấy.
Đến cuối năm 1817, Victor 15 tuổi, cậu đã có một tập thơ đầu tiên : Poésies diverses gồm mấy ngàn câu thơ. Cậu cũng viết được một vở hài kịch, một vở bi kịch năm hồi, một thiên anh hùng ca.
Hàn Lâm Viện Pháp mở một cuộc thi về thơ với đề tài : Cái vui của sự học trong mọi hoàn cảnh của đời người.
Cậu Victor liền làm xong một bài thơ gồm 334 câu và nhờ một thầy Giám thị trong trường nội trú dắt học sinh đi chơi về phía Hàn Lâm Viện, rồi trong lúc các bạn đang đứng ngắm lâu đài, thì cậu và thầy Giám thị chạy vào Hàn Lâm Viện nộp bản dự thi.
Tác phẩm dự thi của cậu Victor Hugo được xếp hạng 9 và viên thư ký của Viện Hàn Lâm ghi rằng : Nên khuyến khích thi sĩ trẻ tuổi nầy nếu quả thực mới 15 tuổi.
Tập thơ không được giải thưởng, nhưng cậu Victor lại nổi danh. Các báo ở Paris đều viết bài khen cậu là thần đồng. Các vị giáo sư dạy cậu cũng có biệt nhãn đối với cậu.
Ít lâu sau, cậu viết được một truyện trung bình đặt tên là Buozargal, nói về cuộc nổi loạn ở Saint Dominique. Kỹ thuật viết đã có đoạn già dặn không kém những truyện hay nhất của Mérimée.
Cậu Victor Hugo đã sớm phát triển tài năng về 2 mặt : Thơ và Văn.
Tháng 2 năm 1818, hai ông bà Léopold và Sophie ly thân nhau. Abel đã đi làm có tiền, còn Eugène và Victor được cha trợ cấp đủ tiền để học môn luật. Họ chỉ ghi tên học chớ không đến lớp mà về nhà ở với Mẹ. Bà cho 2 anh em được tự do vì tin rằng con mình không thể hư và chắc chắn sẽ nổi danh sau nầy.
Thi đàn Académie des Jeux floraux ở Toulouse tổ chức một cuộc thi về thơ với đầu đề là : Dựng lại tượng vua Henri IV.
Victor liền lao vào làm một bài dự thi : Cậu dùng thể thơ 12 cước xen lẫn 8 cước, kỹ thuật đã cao, cân đối nhịp nhàng. Bài được chấm giải nhất, thắng Lamartine, lúc đó hơn cậu 10 tuổi.
Victor gặp lại cô bạn gái thuở ấu thơ tên là Adèle Foucher rất đẹp. Họ yêu nhau ngay, nhưng mẹ của Victor Hugo không đồng ý cho Victor cưới Adèle, nên 2 gia đình tuyệt giao với nhau. Victor lúc ấy 17 tuổi, đã nếm mùi đau khổ của ái tình. Để quên đau khổ, Victor vùi đầu vào nghiên cứu sách vở rồi viết lách.
Tháng 12 năm 1819, Victor cùng với 2 anh quyết định cho ra một tờ Tuần báo Văn nghệ lấy tên là Conservateur littéraire. Abel viết được ít bài, Eugène góp được vài bài thơ, còn bao nhiêu Victor lãnh hết. Cậu viết đủ thứ đề tài văn học
như : Văn, Thơ, Kịch, Truyện ngắn, phê bình, giới thiệu. Cậu làm việc rất thận trọng, tra cứu tài liệu kỹ lưỡng, suy nghĩ chính xác. Tờ báo đứng được 16 tháng. Victor viết được 112 bài báo, 22 bài thơ, ký 10 bút hiệu khác nhau.
Hơn một năm gắng sức làm việc để xây dựng tờ báo, tuy không đem lại cho gia đình một nguồn lợi vật chất đáng kể nào, nhưng lại đem đến cho Victor một cái lợi rất lớn về tinh thần. Victor có dịp suy nghĩ về mọi vấn đề : Văn nghệ, chính trị, tôn giáo và tình yêu. Victor luyện tập được cây bút của mình, tăng lòng tự tin, nhất là có dịp gắng sức tối đa để phát triển tài năng. Một cái lợi nữa là Victor có được một số bạn văn nghệ sĩ đang nổi tiếng lúc bấy giờ.
Tháng 6 năm 1821, mẹ của Victor đau nặng qua đời. Ba anh em lo chôn cất mẹ trong nỗi nhớ thương, u sầu và chán nãn.
Victor tìm đến người yêu cũ là Adèle Foucher nối lại cuộc tình. Ba anh em bây giờ rất nghèo. Victor xin cha cho cưới Adèle. Ông không cản nhưng khuyên cậu hãy đợi đến lúc làm có nhiều tiền.
Năm 1922, Victor Hugo xuất bản tập thơ ODES (đoản thi) được trả tác quyền là 750 quan. Kế đó, triều đình Pháp ân cấp cho Vicor một khoản tiền là 1200 quan mỗi năm để khuyến khích tài năng.
Có được khá nhiều tiền, chàng Victor cử hành lễ cưới Adèle tại nhà thờ Saint Sulpice ngày 22-10-1822, lúc đó Victor Hugo 20 tuổi.
Sau đêm tân hôn vui vẻ thì sáng lại, anh của Victor nổi điên, đập phá lung tung. Trong nhà ai cũng nghĩ rằng Eugène trước đây thầm yêu Adèle nên bây giờ thất vọng hóa điên.
Victor phải đưa anh về ở chung với cha đang ở Blois, rồi sau đó đưa Eugène vào nhà thương điên và ở đó tới chết.
Năm 1823, Victor xuất bản tập truyện HAN D'ISLANDE gồm 4 quyển, tả những cảnh rùng rợn tàn ác phi nhân xen với một cuộc tình của một đôi nam nữ yêu nhau cuồng nhiệt. Trí tưởng tượng của Victor thật phong phú ghê gớm làm cho độc giả phải say mê và phát hoảng.
Victor Hugo lại được Bộ Trưởng Nội Vụ Chánh phủ ân cấp cho 2000 quan mỗi năm, nhập với ân cấp cũ của triều đình là 1200 quan, tổng cộng là 3200 quan mỗi năm. Rồi tác quyền của các tập thơ và truyện được 3000 quan nữa. Lúc đó, Victor Hugo đã khá phong lưu rồi.
Năm 1824, hai vợ chồng mướn một nhà riêng tại đường Vaugirard. Vợ Hugo sanh được một gái đặt tên là Léopoldine Hugo.
Năm 1825, Victor được ân tứ Bắc Đẩu Bội Tinh, cùng một lượt với Lamartine. Dòng Bourbon đang làm vua nước Pháp, đối với Victor Hugo như vậy là ân hậu lắm, nhưng Victor lại ngưỡng mộ Bonaparte hơn. Victor vẫn làm thơ theo com-măn của triều đình : Bài ODE SUR LE SACRE DE CHARLES X, đã tả buổi lễ gia miện của vua Charles X với lời thơ thật trang nghiêm và hoa mỹ, được vua rất thích, liền ân tứ cho tác giả 2000 quan và cho phép vào bệ kiến vua.
Nghệ thuật làm thơ của Victor cũng tăng tiến. Chàng sáng tác ra những thể điệu mới : 3 cước xen lẫn 5 cước hoặc 10 cước, dùng nhiều chữ thích hợp để tạo nhạc cho thơ.
Victor Hugo xuất bản tập thơ : ODES et BALLADES (Đoản ca và tục dao). Lamartine thân mật góp ý : Đừng lập dị, cái đó là trò tiểu xảo không hợp với anh. Saint Breuve, một nhà phê bình, viết trên tờ báo Globe một bài phân tích tỉ mỉ thơ của Victor Hugo, khen là thơ hay, tuy tác giả có tài nhưng lại khuyên là đừng nên thái quá. Victor say mê sáng tác, Ông dự định viết một kịch về Cromwell, Ông tìm tài liệu trong cả 100 quyển sách, rồi từ tháng 8 năm 1826, Ông bắt đầu xây dựng kịch. Viết kịch CROMWELL xong, Ông đọc cho các bạn thân nghe theo tục lệ đương thời. Các bạn đều nhận xét : Kịch vừa bi vừa hài, kỹ thuật mới mẻ, ý tứ mạnh bạo. Do đó kịch không được diễn.
Victor liền viết một Bài Tựa cho vở kịch để bênh vực ý kiến của mình, là muốn mở ra một chân trời mới cho ngành kịch. Bài Tựa nầy rất dài, đầy đủ ý nghĩa, được xem là một bản Tuyên ngôn khai sanh một trường phái mới trong văn học Pháp : Đó là trường phái Lãng mạn (Romantisme) mà Victor Hugo là lãnh tụ.
Trong bộ ba : Lamartine, Alfred de Vigny, Victor Hugo, thì Victor nhỏ tuổi nhứt, nhưng lại uy tín nhứt.
Tiếp theo, Victor Hugo cho ra đời tập thơ LES ORIENTALES, để tả cảnh những xứ phương Đông của Âu Châu như Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ.
Tập thơ nầy ra đời rất hợp thời vì lúc đó Hy Lạp đang chiến đấu với Thổ Nhĩ Kỳ để giành độc lập. Cả Âu Châu đang hướng về cuộc chiến đó. Tập thơ nầy rất linh động, phong phú về hình thức lẫn nội dung. Những đoạn viết rất hùng hồn như tiếng kèn tiếng trống thúc quân, những đoạn tả cảnh thật đẹp và nên thơ, cảnh hoàng hôn, thiếu nữ mơ mộng nằm đưa võng bên hồ.
Victor chưa bao giờ đến những nước phương Đông ấy, toàn là chuyện tưởng tượng thôi, nhưng lại rất hấp dẫn. Sức tưởng tượng của Victor Hugo thật kinh khủng. Kịch bản Cromwell không diễn được, Victor Hugo viết tiếp kịch MARION DE LORME, đề tài lấy trong lịch sử đời vua Louis XIII : Một kỹ nữ được cải hóa nhờ một tình yêu trong sạch và nghiêm trang của một thanh niên. Kịch nầy cũng bị kiểm duyệt, không diễn được.
Nhưng không nãn chí, Victor soạn tiếp một bi kịch lấy tên là HERMANI (1830) : Một thiếu nữ đẹp là nàng Donasol có tới 3 người đàn ông theo đuổi, một ông lão, một ông vua, và một thanh niên bị đày tên Hermani. Nàng chỉ yêu Hermani. Hai người sống hoàn toàn với nhau trong một đêm rồi họ cùng tự tử để giữ cho mối tình chung thủy. Kịch nầy được phép diễn. Khán giả chia làm 2 phe : Ủng hộ và chống đối làm cho náo loạn cả lên.
Nhà xuất bản Mane xin trả cho Victor 5000 quan để được in kịch. Thực may cho Hugo, trong nhà chỉ còn 50 quan.
Báo chí lúc đó cũng phê bình sôi nổi, khen chê có đủ, chỉ lợi cho ông bầu rạp hát và tác giả.
Victor Hugo ký hợp đồng với nhà xuất bản Gosselin để giao tiểu thuyết NOTRE DAME DE PARIS (Nhà thờ Đức Bà Ba-Lê), Ông mới soạn xong tài liệu nhưng chưa viết vì bận viết kịch Hermani và tập luyện các vai diễn kịch.
Chỉ còn 6 tháng nữa là tới hạn hợp đồng, nếu để trễ thì bị phạt. Victor quyết tâm hoàn thành tác phẩm đúng hạn hợp đồng. Ông chuẩn bị đầy đủ giấy mực, rồi khóa kín cửa lại, nhứt định không ra khỏi nhà để dành thời giờ hoàn toàn lo viết cho xong tác phẩm. Truyện được viết theo chủ đề là : Con người đều có số mạng an bày. Số mạng bám chặt con người như con diều hâu quắp lấy con gà, hay con nhện ôm lấy con ruồi. Truyện bắt đầu tả lại đời sống cơ cực của giới dân nghèo dưới triều vua Louis XI của nước Pháp. Trong đám người nầy, có Cô Esméralda, sống bằng nghề phù thủy, bói tướng số. Cô còn trẻ, rất đẹp và ngây thơ, trong sạch, được nhiều người yêu mến. Cô bị ông Phó Giám Mục tên là Claude Frollo ở trong Nhà thờ Đức Bà Ba-lê yêu thầm nhớ trộm. Vị Phó Giám Mục nầy lòng còn phàm tục, nên cho người bắt cóc Cô Esméralda. Một người gù lưng , vừa câm vừa điếc, tên là Quasimodo có phận sự kéo chuông nhà thờ, thấy vậy mới cứu thoát cô và đem giấu kín trong giáo đường. Sau đó, Cô Esméralda cũng không thoát nạn, bị bắt và bị đem ra xét xử. Cô bị thương nặng, sắp chết, thì Quasimodo lại hiện ra cứu thoát Cô lần thứ nhì và đem giấu vào một nơi thật kín. Một thời gian sau, người ta mới tìm được xác của Cô Esméralda nằm trong tay của xác Quasimodo chết khô bên cạnh.
Tiểu thuyết nầy không có tính cách bài xích giáo hội Thiên Chúa giáo mà chỉ rõ rằng Nhơn hư chớ Đạo bất hư.
Toàn truyện gần như xảy ra trong bối cảnh Nhà thờ Đức Bà Ba-lê, được mô tả rất tỉ mỉ, linh động và chính xác.
Victor Hugo vẫn dùng kỹ thuật sở trường của mình là đưa ra những cái tương phản để đập vào óc độc giả : tương phản giữa Thánh tâm và dục vọng cuồng loạn của một tu sĩ cao cấp như Claude Frollo, tương phản giữa hình dáng xấu xí và tâm hồn cao quí của Quasimodo, tương phản giữa tánh tình ngây thơ trong trắng và số phận đen tối của Cô Esméralda.
Tác phẩm NOTRE DAME DE PARIS được giao cho nhà xuất bản đúng thời hạn và độc giả mọi giới đọc say mê và hoan nghinh nhiệt liệt.
Trong gia đình, Victor Hugo rất đau buồn vì vợ là Adèle lại lén lút thư từ qua lại với Saint Breuve là bạn của Victor Hugo, nhưng vì Victor là thủ lãnh của trường phái Lãng mạn nên phải giữ thái độ kẻ cả, và nỗi lòng đau khổ đó được trút vào các vần thơ tuyệt tác.
Do đó, năm 1831, tập thơ FEUILLES D'AUTOMNE ra đời, rằng hay thì thật là hay, nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào ! Chính Saint Breuve cũng nhìn nhận tập thơ nầy quá hay. Nghệ thuật của Victor Hugo đã nhờ sự đau khổ trui luyện thêm già dặn, hết bồng bột cuồng nhiệt như lúc trẻ, mà lại đăm chiêu sầu muộn của người già. Lúc đó Victor 33 tuổi.
Victor Hugo trở lại viết kịch để mau có tiền nuôi gia đình đông con đã lớn rồi. Năm 1832, Ông viết bi kịch lịch sử : LE ROI S'AMUSE (Ông vua ăn chơi) tả lại đời sống trụy lạc của vua Fran cois I. Kịch bản nầy không hay và bị cấm.
Năm 1833, Victor Hugo bèn viết tiếp kịch : LUCRÈCE BORGIA, nội dung nói lên tình mẫu tử của một bà quí tộc tên là Lucrèce Borgia đối với đứa con riêng của bà, mặc dầu đứa con riêng nầy là Đại Úy Gennaro luôn luôn oán ghét và khinh bỉ bà.
Trong thời gian diễn kịch nầy, Victor Hugo gặp một mối tình thứ 2 : Đào hát Juliette Drouet. Tài năng của nàng không hay nhưng nhan sắc của nàng rất quyến rủ. Nàng là một kỹ nữ qua tay nhiều người đàn ông giàu có, nhưng nàng luôn luôn ao ước gặp một người thực sự yêu nàng để nàng có thể sống một đời còn lại được lương thiện để nuôi nấng và dạy dỗ đứa con gái yêu quí của nàng.
Victor Hugo và Juliette gặp nhau thì yêu nhau ngay một cách tha thiết. Nàng quyết định hy sinh tất cả và chịu đựng tất cả để xây dựng cuộc đời với Victor Hugo. Bây giờ thì Victor cảm thấy rất sung sướng. Ông không còn yêu Adèle tha thiết như thuở ban đầu. Adèle cứ sốngg cuộc đời của Adèle với các bạn tâm tình lần lượt là Saint Breuve, vàThéophile Gautier. Còn Victor Hugo thì sống cuộc đời của Hugo cùng với người tình Juliette. Những nghẹn ngào trong Feuilles d'automne (Lá thu) đã dứt để bắt qua những tiếng hát hoàng hôn : LES CHANTS du CRÉPUSCULE (1835). Giọng thơ trong tác phẩm nầy rất cảm động, nhạc thì tuyệt.
Năm 1836, Victor Hugo ứng cử vào Hàn Lâm Viện nhưng lại thua phiếu một nhà soạn kịch tầm thường là Mercier Dupaty. Victor đợi kỳ bầu cử sau, nhưng lại rớt nữa.
Trong lúc nầy, Victor viết vở kịch RUY BLAS (1838).
Năm 1839, hai vị trong Viện Hàn Lâm qua đời, nên bầu 2 vị mới thay thế. Victor lại bị rớt 2 lần nữa. Tất cả bị rớt 4 lần. Lần nào 2 bậc thiên tài Chateaubriand và Lamartine đều ủng hộ và bỏ thăm cho Victor Hugo nhưng vẫn bị rớt.
Mãi đến năm 1841, Victor mới thắng cử và được vô Hàn Lâm Viện.
Năm 1843, Ông viết kịch LES BURGRAVES. Kịch nầy viết rất hay, tả tâm trạng của 2 anh em ruột cùng yêu một cô gái đẹp, rồi hai anh em lại sanh thù oán nhau. Kịch nầy có nhiều đoạn rất hùng tráng, nhưng khi diễn, khán giả không hoan nghinh vì họ đã chán Hý khúc, họ muốn trở về với bi kịch cổ điển.
Victor Hugo buồn rầu vì kịch thất bại, lại đau buồn hơn khi hay tin con gái lớn và chàng rễ đi du lịch, tắm biển cùng bị chết đuối (1843).
Nỗi buồn nầy được ghi lại trong tập thơ bất hủ LES CONTEMPLATIONS (Trầm tư).
Năm 1848, cách mạng Pháp bùng nổ lật đổ vua Louis Philippe và thành lập chế độ cộng hòa. Victor Hugo ủng hộ rất hăng Chính phủ cộng hòa. Ông cùng với Lamartine và Louis Napoléon Bonaparte được bầu vào Quốc hội Lập hiến để thàh lập Hiến Pháp.
Gần tới ngày bầu cử Tổng Thống, Louis Napoléon Bonaparte được dân chúng ủng hộ nồng nhiệt và sau đó đã đắc cử Tổng Thống của Chánh phủ Cộng hoà. Victor Hugo trước đây đã ủng hộ Louis Napoléon Bonaparte, nhưng lần lần thấy Napoléon lo củng cố địa vị đặng làm vua chớ không mở rộng tự do dân chủ. Victor đâm chán và trở lại chống Napoléon một cách dữ dội.
Ngày 2-12-1851 lúc 8 giờ sáng, Victor Hugo đang làm việc thì có người tới báo tin là có cuộc đảo chánh, Louis Bonaparte giải tán Quốc Hội, tự mình lên ngôi Hoàng Đế, lấy hiệu là Napoléon III.
Victor Hugo vội vàng thay quần áo, nói vắn tắt cho vợ hiểu tình hình chánh trị đang đổi thay nghiêm trọng. Ông đi tìm các bạn, tập hợp lại, hô hào tranh đấu, viết tuyên ngôn, tổ chức biểu tình lật đổ Napoléon III. Nhưng dân chúng Pháp đã chán nãn cảnh hỗn loạn đổ máu, nên phong trào xẹp dần. Các bạn lần lượt bị bắt, còn Victor Hugo thì nhờ Juliette làm giấy tờ giả mạo trốn qua được Bruxelles nước Bỉ, sống lưu vong, chỉ có Juliette đi theo Ông và nàng sung sướng tưởng rằng sẽ được chung sống với Ông, nhưng Victor Hugo gạt ngang bảo nàng phải mướn nhà ở riêng gần đó.
Ông vẫn viết và hô hào chống lại Napoléon III, đồng thời Ông viết tập HISTOIRE D'UN CRIME (Lịch sử một tội ác) để kể tội Napoléon III, nhưng vì thiếu tài liệu chính xác nên Ông đành bỏ dở, rồi viết tập sách trào phúng tựa đề NAPOLÉON, LE PETIT (Napoléon, thằng bé con) để mạt sát Napoléon III. Victor Hugo ngại rằng khi tập sách nầy in ra thì vợ con Ông đang sống tại Paris sẽ bị bắt giam và Chánh phủ Bỉ có thể trục xuất Ông ra khỏi Bruxelles. Do đó Ông viết thơ về bảo vợ bán hết gia sản, chuyển qua ở Saint Hélier của đảo Jersey thuộc nước Anh, gần bờ biển nước Pháp.
Tháng 8 năm 1852, cả nhà đều qua tới đảo Jersey. Ông và Juliette cũng qua đó. Juliette mướn một căn nhà gần biệt thự của Ông để ở. Xong rồi, Victor Hugo mới tung ra tập sách Napoléon Le Petit về Pháp. Dân chúng lén truyền tay nhau đọc say mê. Người ta lại dịch ra tiếng Anh và tiếng Y Pha Nho, in cả triệu bản.
Tiếp theo, Victor Hugo viết một tập thơ nhan đề LES CHÂTIMENTS (1853) cũng để mạt sát Napoléon.
Một việc lý thú xảy đến với Victor Hugo lúc ở đảo Jersey là Bà bạn Delphine de Giradin từ Pháp qua thăm, bày cho Ông cầu cơ giao tiếp các chơn linh vô hình. Họ dùng một cái Bàn quay và kiếm một con đồng. Cầu 5 đêm liên tiếp, cơ không lên. Đến khi Victor Hugo tò mò đến xem thì cơ lên liền. Bà Giradin hỏi : Ai đó ? Cái bàn trả lời : Léopoldine (Tên đứa con gái lớn bị chết đuối với chồng năm 1843 khi đi du lịch). Victor Hugo rất ngạc nhiên, hỏi Léopoldine đủ thứ chuyện. Con đồng trong buổi cầu cơ đó là Vacquerie, người thân tín của gia đình Hugo.
Đêm 11-9-1853, buổi xây bàn được tổ chức, có mặt Ông Bà Victor Hugo, Cậu Charles Hugo, Cậu Francois Hugo, Cô Madelène Hugo, Đại Tá Le Flo, Bà Giradin, Ông De Tréveneuse, Ông Auguste Vacquerie. Đêm ấy, vong linh Cô Léopoldine giáng bàn thăm hỏi cha mẹ và tiết lộ nhiều điều huyền bí nơi cõi vô hình.
Đêm 13-9-1853, tiếp tục xây bàn, có vong linh xưng là Bóng Hư Linh giáng bảo Victor Hugo hãy đặt trọn đức tin vào Thượng Đế. Tiếp tục xây bàn, Victor Hugo thông công được với các Đấng như : Socrate, Luther, Mahomet, Jésus, Moise, ..
và thông công với các danh nhân như : Shakespeare, Molière, Racine, … Có nhiều vong linh ẩn danh như : Sứ giả Thượng Đế, Người trong cõi mộng, Bóng dưới mồ, Thần chết, … cũng có giáng bàn.
Đêm 11-10-1853, nhận thấy những điều tiết lộ, những lời khuyên bảo, những giáo lý và triết lý nhận được từ cõi vô hình nhờ vào việc xây bàn, rất hữu ích cho loài người, nên Victor Hugo hỏi vong linh đang giáng bàn :
- Những lời vàng ngọc mà chúng tôi nhận được từ bấy lâu nay, thật đáng xem là một chơn truyền quí báu, chúng tôi có nên in thành sách để phổ biến cho mọi người cùng học đặng chăng ?
Vong linh ấy đáp : - Không, vì chưa đến ngày giờ.
- Đến bao giờ? Chúng tôi còn sống đến ngày đó không
- Nếu không thấy nơi nầy thì sẽ được thấy ở nơi khác. Chừng đến ngày giờ, sẽ có lịnh. Hiện tại, có thể phổ biến hạn chế cho những người có đức tin.
Kể từ đó, V. Hugo rất tin tưởng những vấn đề siêu hình, sự bất diệt của linh hồn, sự hiện hữu của Thần linh.Về sau, những Thánh giáo trong các cuộc xây bàn nói trên được ông Gustave Simon in thành sách với tựa đề là: LES TABLES TOURNANTES de JERSEY chez VICTOR HUGO. Sách này được tái bản mười lần, làm chấn động dư luận nơi nước Pháp và thế giới.
Năm 1855, Nữ hoàng Anh Victoria và vua Pháp Napoléon III giao hảo với nhau, do đó chánh phủ Anh ra lịnh di chuyển bọn lưu vong Pháp qua đảo Guernesey ở gần đó.
Hugo và gia đình cũng phải tuân lịnh. Đảo Guernesey nhỏ và hoang vu hơn đảo Jersey, nhưng V. Hugo lại thích hơn vì ông vốn thích cảnh biển. Ông để râu, để tóc, ăn mặc như dân chài, lân la trò chuyện với họ về đời sống của họ và về biển cả.
Lúc đó, tập thơ Les Contemplations của Ông được phép xuất bản ở Pháp (1856), nhà xuất bản Hetzel gởi đến cho Ông 20.000 quan tiền tác quyền. Victor Hugo liền dùng tiền đó mua ngay một biệt thự ở đảo Guernesey, và như vậy, theo luật nước Anh, ông khỏi bị trục xuất nữa.
Phòng làm việc của V. Hugo trên lầu có ban công hướng về nhà của Juliette. Như lệ thường, nàng vẫn say mê chép bản thảo của Ông. Victor cảm thấy ở đây rất thảnh thơi nên Ông làm việc rất hăng. Ông viết tập thơ LA LÉGENDE DES SIÈCLES (Truyện hoang đường của các thế kỷ).
Năm 1860, Victor Hugo xem lại các tài liệu để viết tiểu thuyết LES MISÉRABLES (Những người khốn khổ). Nhà xuất bản Hetzel ngại không dám in. Nhà xuất bản Albert Lacroix ở Bỉ liền nhận in ngay và mua tác quyền trong 12 năm với số tiền là 300.000 quan. Lần đầu tiên, Victor có được số tiền lớn như vậy.
Năm 1862, tác phẩm in xong, phát hành, thành công rực rỡ. Lacroix lãi được 517.000 quan. Tác phẩm nầy như một tiếng pháo vang lên thúc đẩy tầng lớp lao động nghèo khổ đứng lên làm cách mạng.
Tiếp theo sự thành công nầy, Victor viết tiếp : LES TRAVAILLEURS de LA MER (Người lao động của biển), xuất bản năm 1866. Tác phẩm nầy ngắn hơn Les Misérables, nhưng lại thành công hơn vì Victor không nói triết lý nữa, mà dùng trí tưởng tượng quái đản để viết lôi cuốn độc giả.
Lúc nầy, Victor Hugo giàu rồi, nhưng Ông không cho vợ con phung phí mà dùng tiền nầy để giúp đỡ người nghèo và những thân hữu kém may mắn.
Tháng 8 năm 1868, Bà Adèle vợ của Victor Hugo, sau một cơn bạo bịnh, đã qua đời. Victor cho đưa linh cữu của Bà về Pháp, dặn các con ghi lên mộ của Bà hàng chữ : ADÈLE - VỢ của VICTOR HUGO.
Năm 1869, chế độ của Napoléon III bắt đầu sụp đổ.
Năm 1870, Pháp đánh thua Đức luôn 3 trận. Victor Hugo cùng với Juliette xuống tàu đi Bruxelles và từ đó đi xe lửa về Paris. Rất đông dân chúng ra tận ga đón rước Ông.
Victor Hugo trở lại hoạt động chánh trị rất hăng, được bầu vào Quốc hội và làm thủ lãnh nhóm Cộng hòa, nhưng phe quân chủ vẫn còn thắng thế hơn, thương thuyết với Đức xin đình chiến và Pháp chịu bồi thường chiến tranh.
Bao nhiêu chương trình dự định thực hiện của Ông đều không thành tựu như : Bãi bỏ án tử hình, cải thiện tư pháp, thành lập Liên bang Âu châu, giáo dục miễn phí và cưỡng bách, tăng quyền lợi cho phụ nữ. Victor Hugo quá chán nãn, nên Ông quyết định rút lui khỏi Quốc hội. Ông trở về đời sống của người văn nghệ sĩ thuần túy, sáng tác thêm 2 tác phẩm : L'ANNÉE TERRIBLE (Năm khủng khiếp) và QUATRE VINGT TREIZE (Chín mươi ba). Cả hai tập nầy cũng đều bất hủ.
Năm 1877, Victor Hugo viết xong tập thơ L'ART D'ÊTRE GRAND PÈRE (Nghệ thuật làm Ông Nội). Độc giả cũng rất hoan nghinh tập thơ nầy vì nó ghi lại những cảm xúc êm đềm, những nụ cười hồn nhiên, hai mái tóc một bạc phơ một đen nhánh kề nhau. Lần đầu tiên trong thi ca, Victor Hugo đã đưa vào những nét đẹp hồn nhiên của trẻ thơ.
Hoàng đế nước Brazil là Don Pedro qua thăm nước Pháp, rồi lấy tư cách là một độc giả, nhà vua đến thăm Victor Hugo. Thật là một vinh dự cho Victor.
Năm 1882, Lễ Bát tuần của Victor Hugo được tổ chức lớn lao như Lễ Quốc Khánh. Thủ Tướng Jules Ferry, đại diện chánh phủ Pháp đến chúc thọ Ông, dân chúng và học sinh diễn hành qua trước nhà và Đại lộ trước nhà Ông mang tên Hugo. Victor Hugo đã đạt đến tột đỉnh vinh quang của người cầm bút. Chưa có văn thi sĩ nào từ xưa tới nay được như vậy.
Năm 1883, Bà Juliette bị ung thư bao tử và từ trần, thọ 77 tuổi. Victor không chánh thức cưới Bà nhưng mọi người đều xem Juliette như vợ chánh thức của Ông. Bà đã giúp Ông rất nhiều trong công việc sáng tác.
Victor Hugo tới tuổi nầy bắt đầu lẩn thẩn và viết di chúc : Tặng 40.000 quan cho người nghèo, liệm ông trong cổ quan tài của hạng người nghèo, bản thảo tặng cho Thư viện Quốc gia Paris. Những lúc tỉnh táo, Ông vẫn làm thơ. Câu thơ cuối cùng, Ông viết : C'est ici le combat du jour et la nuit. (Đây là cuộc chiến đấu của ánh sáng và bóng tối).
Ngày 22-5-1885, Ông bị sưng phổi rồi mất, thọ 83 tuổi.
Khi hay tin Victor Hugo chết, cả Thượng và Hạ Nghị Viện đều ngưng họp để tưởng niệm Ông. Nước Pháp làm lễ quốc táng cho Ông, quan tài được đặt tại Khải Hoàn Môn và được an táng trong Đền Panthéon, nơi an nghĩ của những danh nhân có công lớn với dân tộc Pháp.
PHẦN KẾT :
Victor Hugo là một Văn thi sĩ thiên tài độc đáo nhất của nước Pháp vào thế kỷ thứ 19. Ông luôn luôn chủ trương văn thi sĩ có sứ mạng chỉ đường dẫn lối cho dân chúng. Ông đã rất trung thành xứng đáng với sứ mạng đó. Chủ trương nầy giống như chủ trương của phương Đông : Văn dĩ tải Đạo.
Người văn nhân thi sĩ học được kinh sách của Thánh Hiền đời trước thì phải biết dùng văn chương thi phú mà truyền bá đạo lý cho mọi người.
Victor Hugo đã giải quyết được nhiều vấn đề băn khoăn thắc mắc của thời đại Ông :
- Vấn đề nghèo đói là nguyên nhân của tội lỗi, dốt nát là nguyên nhân của sai lầm.
- Vấn đề cái tốt cái xấu, cái thiện cái ác.
- Vấn đề Thượng Đế và con người, Thượng Đế và vũ trụ.
Khi Victor Hugo thoát xác thì Chơn linh của Ngài trở về Bạch Vân Động (Quảng Hàn Cung) nơi cõi thiêng liêng, vì Ngài là một vị Thánh ở trong động đó, Đạo hiệu là Nguyệt Tâm Chơn Nhơn.
Khi Đức Chí Tôn mở Đạo Cao Đài tại nước VN vào năm 1926, thì qua năm 1927, Đức Phạm Hộ Pháp vâng lịnh Đức Chí Tôn sang Nam Vang, thủ đô nước Cao Miên, mở Đạo và thành lập Hội Thánh Ngoại Giáo tại đó, trụ sở đặt tại Thánh Thất Kim Biên, và Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn lãnh lịnh Đức Chí Tôn làm Chưởng Đạo cầm quyền điều khiển Hội Thánh Ngoại Giáo.
" Bần đạo khi đắc lịnh làm Chưởng Đạo lập Hội Thánh giáo đạo tha phương, thì tùng lòng bác ái của Chí Tôn, mở rộng thế cho nhơn sanh dâng công đổi vị. Bần đạo chẳng kể là Nguyên nhân, Hóa nhân, hay là Quỉ nhân, ví biết lập công thì thành Đạo." (TNHT. II. 84)
Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn thường giáng cơ điều hành Hội Thánh Ngoại Giáo và chuyện vãn cùng Đức Phạm Hộ Pháp, những điều Đức Hộ Pháp thắc mắc thường được đem ra hỏi Đức Nguyệt Tâm, được Ngài giải đáp thỏa đáng.
Chính Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn vâng lịnh Đức Chí Tôn giáng cơ lập các phẩm Chức sắc HTĐ dưới Thập nhị Thời Quân để làm tay chân cho quyền Tư Pháp của Đạo. Xin chép ra sau đây bài Thánh giáo quan trọng ấy, đăng trong Đạo Sử II của Bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu, trang 319 chót :
Tòa Thánh ngày 16 tháng2 năm Ất Hợi (dl 20 Mars 1935)


CHƯỞNG ÐẠO NGUYỆT TÂM CHƠN NHƠN
ou Victor Hugo
Cười … Khi nảy có Thượng Phẩm và Quyền Giáo Tông nơi đây, 2 vị mới hộ tiếng Nữ phái… Cười … Quý hóa dữ ha !
Thưa Hộ Pháp, Bần đạo để lời chia vui cùng Ngài, khi hôm qua, nhờ có Thánh chỉ Chí Tôn, nên mới đặng rộng đường xuất Thánh. Bần đạo có để lời trân trọng cầu thưởng cho học tu nên mới đặng cao phong phẩm giá.
Cười … Phẩm trật rắc rối khó nói rõ, nhưng chia ba : Pháp, Đạo, Thế, thì theo sự hiểu biết của Bần đạo như vầy :

THĂNG.
      SĨ TẢI là Secretaire Archiviste.
      Lên phẩm TRUYỀN TRẠNG là Greffier.
      Rồi lên phẩm THỪA SỬ là Commissaire de la justice.
      Phẩm GIÁM ÐẠO là Inspecteur.
      Lên phẩm CẢI TRẠNG là Avocat.
      Lên phẩm CHƯỞNG ẤN là Chancelier.
      Lên phẩm ấy rồi tùy phái mà lên Đại vị Hiệp Thiên Đài, nhưng phải biết rằng : Chưởng Ấn phải lên Đại vị TIẾP DẪN ÐẠO NHƠN mà đắc phong phổ thông đặng một nước nào rồi mới vào Chánh vị.
      Lợi và mấy vị kia là Sĩ Tải của HTĐ mà thôi.
Hai người con trai của Victor Hugo và Bà Adèle Foucher là : Charles Hugo và Francois Hugo, kỳ nầy đầu kiếp ở VN : Charles Hugo đầu kiếp là Ông Đặng Trung Chữ, Đạo hiệu Ngạn Sơn, đắc phong Giáo Sư CTĐ Thượng Chữ Thanh (năm 1934); còn Francois Hugo đầu kiếp là Ông Trần quang Vinh, Đạo hiệu Hiển Trung, đắc phong Giáo Sư CTĐ Thượng Vinh Thanh (năm 1934), về sau cả 2 vị đều được thăng Phối Sư.
Sau đây là bài giáng cơ của Bà Adèle Foucher nói chuyện với 2 con trai là Charles và Francois :
Nam Vang, 11 giờ đêm ngày 16-2-1933, tại tư gia của Cao Tiếp Đạo
Phò loan : Hộ Pháp + Tiếp Đạo.
Hầu đàn : GS Thượng Bảy Thanh
GS Thượng Chữ Thanh
GS Thượng Vinh Thanh.
VICTOR HUGO
Xin chào chư Hiền Hữu và chư Hiền muội.
Charles và Francois, Mẹ của hai con đến.
Bà VICTOR HUGO, nhũ danh ADÈLE FOUCHER
Các con đứng dậy, khóc !
Suốt đời Mẹ không ngăn nổi ý chí của cha các con, đặc biệt trong những hành động nhân ái của người, luôn luôn người tranh đấu chống tàn sát. Sau khi người qua đời, người vẫn không từ bỏ ý định.
Người gởi 2 con tiếp tục sự nghiệp của người, giữa những kẻ đã chối bỏ 2 con. Bởi bội bạc, họ chồng chất những mưu mô xấu xa, những vu khống và bất công.
Cha 2 con đã thu được kết quả gì ?
Người có đủ tài năng thấu đáo trong cõi vô vi.
Không, mặc dầu Mẹ khóc, người nhứt quyết đưa các con vào thế giới khủng khiếp đó.
Vacquerie, nó cũng tái kiếp. Nó thường tự nhủ rằng địa cầu quyến rũ nó. Nó sắp làm Đại chánh khách theo dấu Léopold ở Hòa Lan.
Madelène không còn muốn đau khổ, nó từ chối đến thăm 2 con. Cho rằng kỷ niệm làm đau đớn, nó không còn muốn nhìn lại cảnh trần gian. THĂNG.
(Bài giáng cơ bằng Pháp văn, Ông Nguyễn Lộc Thọ dịch ra Việt văn)
Trong Đạo Cao Đài, hằng năm đến ngày 22 tháng 5 dương lịch, tại Tòa Thánh và các Thánh Thất địa phương đều có thiết Tiểu đàn cúng Vía Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn, có Chức sắc nhắc lại Tiểu sử của Ngài và những lời giảng đạo của Ngài khi Ngài đắc lịnh làm Chưởng Đạo cầm quyền Hội Thánh Ngoại Giáo.
Bài Thài hiến lễ Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn mỗi khi cúng tế về phần Thế đạo :

      NGUYỆT rạng đông thiên đã sáng soi,
      TÂM linh chiếu thấu bốn phương trời.
      CHƠN truyền cứu thế xa tai ách,
      NHƠN loại tuần huờn độ khắp nơi.
Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn có giáng cơ ban cho Đạo Cao Đài 6 Bài Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo, kể ra :

      1. Kinh Tắm Thánh.
      2. Kinh Hôn Phối.
      3. Kinh Tẫn Liệm.
      4. Kinh Cầu Hồn Khi Hấp Hối.
      5. Kinh Khi Đã Chết Rồi
      6. Kinh Đưa Linh Cữu.



Tiểu sử TRUNG SƠN CHƠN NHƠN
Tôn dật Tiên

Trung Sơn Chơn Nhơn là một vị Thánh của Bạch Vân Động nơi cõi thiêng liêng, giáng trần ở nước Trung Hoa, có tên là Tôn Văn, hiệu là Tôn Trung Sơn, lại cũng lấy hiệu khác là Tôn Dật Tiên. Ngài lấy hiệu Trung Sơn khi Ngài sống lưu vong nơi nước Nhựt, Ngài tự xưng là Sơn Trung Tiều, nghĩa là ông tiều trong núi; lại cũng xưng là Dật Tiên, nghĩa là ông Tiên ở ẩn (vì chữ Nhơn [người] đứng kế chữ Sơn [núi] thành chữ Tiên). Cho nên người ta gọi Tôn Văn là Tôn Trung Sơn hay Tôn Dật Tiên (Sun Yat Sen) đều được cả.
Ngài Tôn Văn sanh ngày 12-11-1866 (Bính Dần) tại làng Thùy Hưng huyện Hương Sơn, nay đổi tên lại là huyện Trung Sơn, tỉnh Quảng Đông, dưới thời nhà Mãn Thanh.
Năm 1879, Tôn Văn cùng mẹ qua Honolulu thuộc quần đảo Hawaii giữa Thái Bình Dương sống với người anh tên là Tôn Mi, một Hoa kiều giàu có ở đây. Tôn Mi giúp đỡ cho Tôn Văn vào học trường Trung học do Giáo hội Cơ Đốc nước Anh mở ra. Học hết bậc Trung học, Tôn Văn được anh cho trở về Hồng Kông học Đại học Y Khoa, và Tôn Văn tốt nghiệp Bác sĩ Y khoa tại trường nầy vào năm 1892, lúc đó Tôn văn được 27 tuổi.
Tôn Văn trở về Quảng Châu mở phòng mạch Bác sĩ, và bắt đầu tiếp xúc, liên lạc với các nhà cách mạng. Trong thời gian Tôn Văn học Đại học Y khoa ở Hồng Kông, Tôn Văn đã chứng kiến cuộc chiến tranh giữa quân đội nhà Mãn Thanh và quân đội nước Pháp. Quân đội Mãn Thanh, với vũ khí thô sơ, nên bị thảm bại và buộc phải ký Tờ Hoà ước nhường cho nước Pháp nhiều đặc quyền về kinh tế.
Năm 1894, Tôn Văn gởi một bức thơ lên vị Đại Thần Lý Hồng Chương để yêu cầu cải cách nước Tàu và yêu cầu họ Lý tiếp kiến, nhưng Lý từ chối. Từ đó, Tôn Văn bỏ ý tưởng cải cách, chuyển sang lập trường làm cách mạng.
Tháng 11 năm 1894, Tôn Văn sang Honolulu thành lập một tổ chức cách mạng đầu tiên lấy tên là Hưng Trung Hội, với cương lĩnh là lật đổ nhà Mãn Thanh, khôi phục lại nước Trung hoa, thành lập Chánh phủ Dân chủ. Tổ chức ban đầu chỉ thu hút được khoảng 20 Hoa kiều.
Tháng 2 năm 1895, Tôn Văn trở về Hồng Kông để thành lập Tổng Bộ Hưng Trung Hội, chuẩn bị kế hoạch khởi nghĩa ở Quảng Châu. Trong nội bộ có kẻ làm phản, kế hoạch bị bại lộ, hơn 70 người bị bắt và bị giết chết, Tôn Văn trốn thoát được. Triều đình Mãn Thanh treo giải thưởng lớn cho ai bắt được Tôn Văn. Tôn Văn phải trốn sang Nhựt, rồi trở lại đảo Hawaii, lại qua Mỹ rồi sang nước Anh.
Tháng 10 năm 1896, Tôn Văn từ một khách sạn ở Luân Đôn đi ra để gặp thầy giáo Kantlei, người quen cũ hồi học ở Đại học Y khoa Hồng Kông, nhưng bị người của Sứ quán Mãn Thanh tại Luân Đôn bắt giữ để giải về nước trị tội. Tôn Văn may mắn được một người Anh đang làm công nhân trong Sứ quán Mãn Thanh chuyển giùm một bức thơ của ông đến thầy Kantlei. Kantlei liền đến Cơ quan Cảnh Sát Anh nhờ can thiệp để thả Tôn Văn ra, nhưng Cơ quan nầy làm ngơ. Kantlei liền nhờ báo chí làm rùm lên. Ngay ngày hôm sau, trên các tờ báo lớn tại Luân Đôn đều có đăng tin : Hành động bắt người trái phép của Sứ quán Trung quốc. Những người Anh ủng hộ Cách mạng Trung quốc kéo đến biểu tình, bao vây Sứ quán Trung quốc, đòi thả Tôn Văn. Cuối cùng, Sứ quán Trung quốc phải nhượng bộ, thả Tôn Văn ra.
Năm 1897, Tôn Văn rời Luân Đôn sang Nhựt để tuyên truyền về Hưng Trung Hội trong hàng ngũ Hoa kiều tại đây.
Tháng 10 năm 1898, Tôn Văn gặp Khang hữu Vi và Lương khải Siêu, đang sang lánh nạn tại Nhựt sau thất bại Biến Pháp Mậu Tuất, Tôn Văn vận động hai Ông hợp tác với Hưng Trung Hội, nhưng không thành công.
Năm 1900, dưới ảnh hưởng của Phong trào Nông dân Nghĩa Hòa Đoàn, Tôn Văn trở về nước phát động cuộc khởi nghĩa của Hưng Trung Hội ở Huệ Châu vào ngày 8-10-1900, nhưng không thành công. Ông phải lánh nạn qua Nhựt lần thứ nhì, rồi qua đảo Hawaii, Việt Nam, Thái Lan và Mỹ.
Ngày 20-8-1905, tại Tokyo Nhựt bổn, Tôn Văn hợp nhất Hưng Trung Hội với các Chánh đảng khác có cùng mục đích như Quang Phục Hội, Hoa Hưng Hội, thành lập một đảng thống nhứt, lấy tên là Trung Quốc Đồng Minh Hội, do Tôn Văn làm Tổng Lý, với cương lĩnh : "Lật đổ Mãn Thanh, khôi phục nước Trung Hoa, thành lập nước Trung Hoa Dân Quốc."
Tháng 11 năm 1905, trên tờ Dân Báo, Cơ quan Ngôn luận của Đồng Minh Hội, Tôn Văn phê phán gay gắt lý luận cải lương của 2 Ông Khang hữu Vi và Lương khải Siêu. Ông chủ trương phải tiến hành cách mạng vũ trang, và Ông đưa ra Chủ nghĩa TAM DÂN : Dân tộc, Dân quyền, Dân sinh.
Dân tộc : Nước Trung hoa độc lập. Năm tộc : Hán, Mãn, Mông, Hồi, Tạng, trong toàn cõi Trung hoa phải bình đẳng hết thảy.
Dân quyền : Nước Trung hoa là nước dân chủ, có Quốc hội do dân trực tiếp bầu ra, nắm quyền Lập pháp. Người dân có quyền ứng cử và bầu cử, ngoài ra còn có quyền sáng chế, quyền phức quyết và quyền bãi miễn nữa.
Dân sinh : Mọi người dân đều sống bình đẳng trong xã hội. Nguyên tắc cơ bản là bình quân địa quyền và tiết chế tư bản, để đi đến mục đích là giải phóng kinh tế, khiến toàn dân đều được hưởng thụ lợi ích : Ăn mặc, ở và đi.
Từ năm 1906 đến 1911, Tôn Văn phát động tất cả 10 cuộc khởi nghĩa tại Hồ nam, Giang Tây, Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam, An Huy, Triết Giang. Những cuộc khởi nghĩa trên đều thất bại, nhưng đã làm cho nhà Mãn Thanh suy yếu và làm cho tinh thần cách mạng của dân chúng Trung hoa càng lúc càng lên cao.
Cuối cùng cuộc khởi nghĩa tại Vũ Xương ngày 10-10-1911 ( năm Tân Hợi), gọi là cuộc Cách Mạng Tân Hợi, dưới sự lãnh đạo của các nhà Cách mạng chịu ảnh hưởng của Tôn Văn và Đồng Minh Hội, đạt được thắng lợi và ảnh hưởng lan rộng ra toàn quốc.
Tôn Văn đang ở nước Mỹ, nhận được tin Cách mạng thành công, liền tiến hành các hoạt động ngoại giao đối với các Chánh phủ của các nước Âu Mỹ để cắt đứt quan hệ của họ với nhà Mãn Thanh.
Cuối tháng 12 năm 1911, Tôn Văn từ Âu Châu trở về Trung quốc. Do công lao to lớn của Ông với sự nghiệp cách mạng, Hội Nghị Đại biểu 17 tỉnh độc lập họp ở Nam Kinh bầu Tôn Văn làm Tổng Thống lâm thời.
Ngày 1-1-1912, Tôn Văn nhậm chức Tổng Thống tại Nam Kinh và thành lập Chánh phủ Trung hoa Dân Quốc.
Tổng Thống lâm thời Tôn Văn tuyên bố một loạt các pháp lệnh cải cách nước Trung hoa.
Ngày 11-3-1912, Ông ban bố Ước Pháp Lâm thời của Trung Hoa Dân Quốc, xem đó như là Hiến Pháp Tạm thời của nước Trung Hoa Dân Quốc. Tôn Văn đặt ra lá cờ của nước Trung Hoa Dân Quốc, gọi là lá cờ "Thanh Thiên Bạch Nhật mãn địa hồng" (Trời xanh, Mặt Trời trắng, đầy đất đỏ).
Do áp lực của các nước Âu Mỹ và các thế lực bảo thủ trong nước, cộng với sự yếu kém và tản mạn của đảng cách mạng, Tôn Văn buộc phải chấp nhận các điều kiện của Viên Thế Khải là nhường chức Tổng Thống cho Viên sau khi vua nhà Mãn Thanh thoái vị.
Vị vua cuối cùng của nhà Mãn Thanh là Phổ Nghi bị buộc phải thoái vị ngày 12-2-1912, kết thúc 2000 năm chế độ quân chủ cai trị nước Tàu.
Ngày 1-4-1912, Tôn Văn chánh thức rút lui khỏi chức vụ Tổng Thống.
Tháng 8 năm 1912, Tôn Văn cải tổ Trung Quốc Đồng Minh Hội thành Quốc Dân Đảng.
Ngày 25-10-1915, Tôn Văn kết hôn với Bà Tống Khánh Linh.
Năm 1916, Viên Thế Khải, một vị Đại Thần của triều đình Mãn Thanh, phản lại Mãn Thanh, hưởng ứng theo cách mạng, được Tôn Văn nhường cho chức Tổng Thống, lại lo củng cố thế lực, phản lại chế độ Dân chủ Cộng hòa, tự lập làm vua, xưng Đế tại Bắc Kinh, tái lập chế độ Quân chủ.
Các tướng lãnh nắm quyền quân đội, các vị Tỉnh trưởng, nổi lên chống đối quyết liệt, Viên Thế Khải ưu uất mà chết.
Trong thời gian đó, Tôn Văn lãnh đạo Chánh phủ Quân sự ở Quảng Đông (1917-1918) và làm Tổng Thống Chánh phủ Cộng hòa.
Tháng 10 năm 1919, Tôn Văn cải tổ Quốc Dân Đảng. Trong bản Tuyên ngôn của Quốc Dân Đảng vào tháng Giêng năm 1923, Ông tuyên bố sẽ dựa vào quần chúng để hoàn thành nhiệm vụ Cách mạng. Ông chủ tương xây dựng Quảng Châu thành đại bản doanh cách mạng.
Tháng 8 năm 1923, Ông cử một Đoàn Đại biểu do Tưởng Giới Thạch cầm đầu sang Liên Xô nghiên cứu chánh trị xây dựng đảng và cách tổ chức Hồng Quân Liên Xô. (Tưởng Giới Thạch có vợ là Tống Mỹ Linh, em ruột của Tống Khánh Linh). Tháng 10 năm 1923, Tôn Văn tiếp nhận Phái đoàn Cố vấn của Liên Xô do Borodin cầm đầu đến Quảng Châu.
Tháng giêng năm 1924, Đại Hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ nhứt của Quốc Đân Đảng nhóm họp tại Quảng Châu. Trên diễn đàn Đại Hội, Tôn Văn Tuyên bố 3 chánh sách lớn của Quốc Dân Đảng : Liên Nga, Liên Cộng, Ủng hộ Công Nông. Trong bản Tuyên ngôn của Đại Hội, Tôn Văn giải thích Chủ nghĩa Tam Dân mới : Phản đế, Phản phong, Tiết chế Đại tư bản. Nó trở thành cương lĩnh chung cho Mặt Trận Thống Nhứt Quốc Cộng hợp tác lúc bấy giờ.
Tháng 5 năm 1924, Tôn Văn thành lập Trường Võ Bị Hoàng Phố ở Quảng Châu, gọi là Trường Trung Quốc Quốc Dân Đảng Lục Quân Quan Học Hiệu, và cử Tưởng Giới Thạch làm Hiệu trưởng.
Tháng 10 năm 1924, tại Bắc Trung hoa, Lưu vĩnh Tường và Trương tác Lâm đánh thắng Ngô bội Phu, buộc Tào Côn từ chức Tổng Thống, rồi hai Ông nầy hiệp cùng Đoàn kỳ Thụy đánh điện mời Tôn Văn lên bắc Kinh để bàn việc thống nhứt Nam Bắc.
Tôn Văn lên đến Bắc Kinh, nhưng chẳng bao lâu sau thì bị bạo bịnh bất ngờ và mất ngày 12-3-1925 (âl 18-2-Ất Sửu), thọ 60 tuổi.
Ngài di chúc lại như sau :
- Đảng viên Quốc Dân Đảng phải nổ lực cách mạng.
- Triệu tập Quốc Dân Hội Nghị.
- Phế trừ các điều ước bất bình đẳng đối với ngoại bang.
Cái chết đột ngột của Tôn Văn là một thiệt hại lớn cho cao trào cách mạng của dân tộc Trung hoa.
Sau 14 năm làm cách mạng, kể từ năm 1911 đến năm Ông mất 1925, Tôn Văn đã đạt được 2 thắng lợi lớn :
+ Lật đổ được triều đình nhà Mãn Thanh.
+ Thành lập nước Trung Hoa Dân Quốc với chế độ Dân chủ Công hòa.
Đám tang của Tôn Văn được tổ chức rất trọng thể với nghi lễ Quốc táng, có hàng chục vạn người đưa tiễn đến nơi an nghỉ cuối cùng.
Năm 1929, di hài của Tôn Văn được chuyển về an táng tại núi Tử Kim ở Nam Kinh.
Năm 1986, Trung quốc xuất bản quyển " Tôn Trung Sơn Toàn tập" gồm 11 tập, và ở Đài Loan xuất bản quyển " Quốc Phụ Toàn tập ".
Như trên đã trình bày, Tôn Văn, tức Tôn Trung Sơn hay Tôn Dật Tiên, là một nhà Chánh trị và Cách mạng lớn của dân tộc Trung Hoa, nhưng Tôn Văn cũng còn là một nhà Tư tưởng Triết học với tác phẩm cơ bản laø " Học Thuyết Tôn Văn ". Khuynh hướng tư tưởng của Tôn Văn dựa vào Thuyết Tiến Hóa của Darwin. Về Vũ trụ quan, Tôn Văn giải thích Thái Cực vận động sanh ra điện tử, điện tử ngưng kết thành Nguyên tố, Nguyên tố hợp thành Vật chất, Vật chất tụ lại thành Trái Đất.
Ông cho Tinh thần chỉ là hiệu quả của Vật chất, tức là chủ trương Duy Vật, nhưng đồng thời nhấn mạnh sự ảnh hưởng của Giáo dục Tinh thần.
Về quan hệ giữa TRI và HÀNH, Ông chống lại tư tưởng cổ đại Trung quốc : " Biết không khó, Làm mới khó." Theo Ông thì Biết khó Làm dễ, chủ trương phải tìm tri thức khoa học, nhưng không đi đến quan niệm Duy Tâm "Biết trước Làm sau", và bác bỏ thuyết Tri Hành hợp nhứt của Vương Dương Minh.
Ông chủ trương : Làm trước Biết sau, không Biết cũng có thể làm, cho sự hoạt động thực tiễn là con đường tiến bộ tất yếu.
Ông chia quá trình nhận thức làm 3 thời kỳ :
- Không Biết mà Làm.
- Làm rồi mới Biết.
- Biết rồi mới Làm.
Phần lớn thì giờ của Tôn Văn dành cho công cuộc cách mạng, Ông lại mất sớm và đột ngột, nên Ông chưa có thì giờ để xây dựng tư tưởng triết học của Ông được hoàn chỉnh.
Hằng năm, đến ngày 18-2 âm lịch, ngày mất của Tôn Văn, tại Tông Đạo Đường Nhơn của người Tàu ở Tòa Thánh Tây Ninh, các Chức sắc, Chức việc, và Đạo hữu Đường nhơn cử hành Lễ Cúng tế Kỷ niệm ngày mất của Tôn Văn, có Đại diện của Hội Thánh đến tham dự.
Đức Trung Sơn Chơn Nhơn ít giáng cơ dạy Đạo hơn Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn. Sau đây, chúng tôi có sưu tập được một bài Thánh giáo của Ngài nói chuyện với Giáo Sư Thượng Bảy Thanh, Đạo hiệu Phong Chí, thuộc Hội Thánh Ngoại Giáo, trong đó có tiên tri về nước Trung hoa và nước Nhựt, xin chép ra như sau :
Đàn cơ tại Hộ Pháp Đường
ngày 17-10-Bính Tý (dl 30-12-1936)
Phò loan : Hộ Pháp, Tiếp Đạo


TÔN SƠN CHƠN NHƠN
Bần tăng chào quí vị. Cười . . .
Anh Phong Chí đứng chớ. Làm bộ hoài !
Theo ý Bần tăng tưởng thì buổi nầy chưa phải hợp thế thời cho Đạo phổ thông Trung quốc, vì 2 lẽ :
Một là Chánh phủ Pháp với Đông Dương nầy chẳng phải thật tâm trọng Đạo, cố ý giúp dùm, mà thật sự thì chờ Đạo xuất dương nơi Trung hoa, đặng mai phục ẩn binh toan phương hãm hại.
Anh Phong Chí nè ! Anh chưa bước chân đến nước Tàu mà tên Anh đã treo nhỏng nhảnh nơi Phòng Mật Thám Tsien Tries, ấy là đợi Anh qua đặng ghim vào bằng cớ tụ họp thông tư ngoại quốc vì quốc sự, chớ chẳng vì Đạo. Các cớ ấy chúng sẽ làm thế nào cho quả quyết hiển nhiên đặng toan diệt Đạo nơi đây cho đặng.
Hai nữa là vì Thiên thơ đã định cho Huê Nhựt hiệp chủng. Hại nỗi lại là tay có trọng trách nơi phần tạo Tân Thế giới cho Đức Chí Tôn, nên Ngọc Hư bảo trọng không cho diệt chủng, duy chịu nạn diệt quốc mà thôi.
Trong thế kỷ 21 sẽ thấy tang điền Nhựt đảo biến nên thương hải Huê triều. Ấy vậy, lúc phối hợp dân sanh sẽ có lắm trường huyết chiến.
Em nói : Trong thời gian ngắn ngủi chi đây sẽ có Nhựt Huê đại chiến.
Em lại nói chắc rằng : Chức sắc giáo đạo những nơi Huê triều, ngày kia cũng phải chung mang khổ ách.
Anh hiểu rồi ! Gắng nghe lời Hộ Pháp khuyến giáo và hạ lịnh mới gây nổi cơ đồ vĩ đại, Nghe và tuân theo vì đó là lịnh dạy của Thầy.
Em trả lời những sự Anh cầu nguyện rồi.
Xin để nhượng bút cho Phạm Phối Thánh.
Cao Tiếp Đạo ! Bần tăng xin dâng bài thi nầy :
THĂNG


THI : Chém nước chưa ai nắm bửu đao,
Có phong trần mới định anh hào.
Thường mưu trối kệ đời toan tính,
Cái nghiệp thương đời phải chịu đau.


Tam Thánh Ký Hòa ước

Tổng quát

Định nghĩa : Tam Thánh là 3 vị Thánh, ở đây chỉ 3 vị Thánh đứng đầu Bạch Vân Động nơi cõi Thiêng liêng.
Ba vị Thánh đó là :
- Đức Thanh Sơn Đạo Sĩ, hay Thanh Sơn Chơn Nhơn, đứng đầu Bạch Vân Động, mà trong kiếp giáng trần tại Việt Nam, Ngài là Trạng Trình Nguyễn bỉnh Khiêm.
- Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn, mà trong kiếp giáng trần tại nước Pháp, Ngài là Đại văn hào Victor hugo.
- Đức Trung Sơn Chơn Nhơn, mà trong kiếp giáng trần tại nước Trung Hoa, Ngài là nhà Đại Cách mạng Tôn Dật Tiên, tức Tôn Văn.
, theo nghĩa chữ Hán, có nghĩa là ghi chép.
Hòa Ước là bản văn cam kết thi hành những điều thỏa thuận giữa đôi bên. Đây là bản Hòa Ước giữ Trời và Người, tức là giữa Thượng Đế và Nhơn loại, nên được gọi là THIÊN NHƠN HÒA ƯỚC.
Tam Thánh Ký Hòa Ước là 3 vị Thánh Bạch Vân Động ghi chép bản Thiên Nhơn Hòa Ước lên một tấm bia đá để công bố lên cho toàn thể Vạn Linh trong Càn Khôn Vũ Trụ biết rõ.
Khi du khách bước vào cửa chánh Tòa Thánh, nhìn ngay vào, liền thấy một bức họa thật lớn sừng sựng trên vách, vẽ hình Tam Thánh Bạch Vân Động cao lớn và sống động như người thật, đang cầm bút viết bản Đệ Tam Thiên Nhơn Hòa Ước trên một tấm bia đá tỏa hào quang bằng 2 thứ chữ : Chữ Trung Hoa tức là chữ Nho của Việt Nam, và chữ Pháp :
Đức Thanh Sơn Đạo Sĩ cầm bút lông viết 8 chữ Nho :
(Thiên thượng Thiên hạ - Bác ái Công bình.)
Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn cầm bút lông ngỗng viết 6 chữ Pháp :
"DIEU et HUMANITÉ - AMOUR et JUSTICE"
Cả hai vị đều chấm bút lông vào nghiên mực đỏ tỏa hào quang do Đức Trung Sơn Chơn Nhơn đứng cầm. Bên góc dưới Bức họa có ghi :
      " Tòa Thánh 1947
      Họa sĩ Lê minh Tòng"
Bên cạnh Bức họa nầy, Hội Thánh có đặt bản chú thích bằng 5 thứ chữ : Chữ Việt, chữ Pháp, chữ Trung Hoa, chữ Anh và chữ Đức.
Bản chữ Việt, xin chép ra như sau đây :
" TRUYỆN KÝ TAM THÁNH"
"Cụ NGUYỄN BỈNH KHIÊM, nhà tiên tri danh tiếng lớn ở đời Mạc Lê, thi đậu Trạng nguyên, tước vị là Trình Quốc Công, tục gọi là Trạng Trình, giáng cơ tự xưng là Thanh Sơn Đạo Sĩ, tức là Sư Phó của Bạch Vân Động.
Cụ VICTOR HUGO, nhà thi gia trứ danh của Pháp quốc, giáng cơ tự xưng là Nguyệt Tâm Chơn Nhơn, tức là đệ tử của Cụ Nguyễn bỉnh Khiêm ở Bạch Vân Động.
Cụ TÔN DẬT TIÊN, đại cách mạng gia nước Trung Hoa, nhũ danh là Tôn Văn, giáng cơ tự xưng là Trung Sơn Chơn Nhơn, tức là đệ tử Cụ Nguyễn bỉnh Khiêm ở Bạch Vân Động.
Ba vị Thánh nhơn trên đây là Thiên Sứ đắc lịnh làm Hướng đạo cho nhơn loại để thực hành Đệ Tam Thiên Nhơn Hòa Ước."
(GHI CHÚ : Sư Phó Bạch Vân Động là vị Thầy dạy chư Thánh trong Bạch Vân Động, nên cũng là Động chủ Bạch Vân Động).

                                  Lễ Trấn Thần Tam Thánh

Vào năm 1947, Hiền Tài Lê minh Tòng là một họa sĩ, lãnh ý kiến của Đức Hộ Pháp Phạm công Tắc để vẽ bức họa "Tam Thánh ký Hòa ước". Khi vẽ xong, trình với Đức Hộ Pháp thì được Đức Ngài chấp thuận bản vẽ nầy.
Sau đây là Bài tường thuật của Luật Sự Võ quang Tâm (Tốc ký viên) về buổi lễ Đức Phạm Hộ Pháp trấn Thần bức họa Tam Thánh ký Hòa ước.
" Cuộc lễ rước tượng Tam Thánh ký Hòa ước khởi hành vào lúc 8 giờ sáng ngày 10-7-Mậu Tý (dl 11-8-1948).
Hiện diện : Chư Chức sắc HTĐ, CTĐ, Phước Thiện, Chức việc, Đạo hữu NamNữ, chư Thượng Hạ Sĩ quan thamdự.
Đúng giờ, Lễ Viện và Dàn Nhạc đến Hộ Pháp Đường rước Đức Hộ Pháp qua Văn phòng Quốc Sự Vụ, vì nơi đây là nơi khởi đầu cuộc rước tượng ảnh.
Lộ trình, trước hết hai hàng Đồng nhi nam nữ, kế Bảo thể cầm đồ Lỗ bộ đi hai bên Dàn Nhạc, có 4 Lễ sĩ mặc áo phái Ngọc (áo tràng đỏ), 2 vị cầm lọng, 2 vị cầm tàn, hầu hai bên bàn đưa tượng ảnh, có 4 vị Lễ Sanh thuộc Hội Thánh Ngoại Giáo khiêng đi.
Bức tượng Tam Thánh nầy do vị Hiền Tài Lê minh Tòng vâng lịnh Đức Hộ Pháp truyền họa, khuôn khổ : 2 m 80 X 1 m 90.
Hình tượng bằng người thường. Đức Thanh Sơn cầm bút lông mèo, Đức Nguyệt Tâm cầm bút lông ngỗng, và Đức Tôn Sơn cầm nghiên mực.
Hai Đấng đang viết trên bia đá những chữ :
Hán văn :
Pháp văn :
Đi tiếp bàn đưa có Đức Hộ Pháp mặc Tiểu phục vàng, đội Tam quang mạo, kế đó là Ngài Bảo Thế, Khai Đạo mặc Tiểu phục trắng, đội Tam quang mạo, kế tiếp là Chức sắc HTĐ, CTĐ, Phước Thiện, Chức việc, Sĩ quan, Đạo hữu và trên 200 học sinh Đạo Đức Học Đường đi sau rốt.
Đến Đền Thánh, đi vào cửa hông phía Đông, tiến lên Cung Đạo, day mặt tượng ảnh vào Bát Quái Đài, Bảo thể cầm đồ Lỗ bộ đứng hầu hai bên.
Trước hết, Đức Hộ Pháp xông tay vào lư hương và áp vào mặt 3 lần, rồi Ngai bước xuống cầm lư hương xông tượng ảnh 3 lần để khử trược. Xong rồi, Đức Hộ Pháp lấy nước Âm Dương hòa lại, rải lên tượng ảnh 3 cái, bắt đầu từ Đức Thanh Sơn đến Đức Nguyệt Tâm, rồi đến Đức Trung Sơn.
Rồi Đức Hộ Pháp lấy 9 cây nhang trấn Thần Tam Thánh : Đức Thanh Sơn trước, Đức Nguyệt Tâm kế đó, và sau rốt là Đức Tôn Trung Sơn.
Đồng nhi đứng trên lầu HTĐ đọc kinh Xưng Tụng Công Đức. Khi dứt kinh, Đức Hộ Pháp giải rằng :
" Trấn Thần 3 vị Thánh rất khó, vì phải kêu Chơn linh họ đến nhập vào tượng ảnh, mà muốn Chơn linh họ đến, phải thấu đáo cả căn kiếp của họ mới đặng. Còn 9 cây nhang dùng để trấn Thần là 9 cái thang bắc lên Cửu Trùng Thiên cho các Chơn linh nương theo đó. Chẳng biết họ ở từng Trời thứ mấy, mình cứ đưa lên đủ, họ gặp họ tới ngay, quan hệ là trước khi trấn Thần, phải xem lại coi có tắt cây nhang nào không. Thảng như họ ở từng thứ 7 mà cây nhang thứ 6 rủi tắt đi, thành ra bị cách khoảng, họ không thể tới được.
Bây giờ chúng ta chỉ thông công với các Đấng trong Cửu Thiên Khai Hóa, rồi đây cũng có ngày Bần đạo kêu lên Đức Di-Lạc ở từng thứ 11 chưa biết chừng, khi ấy sẽ phải dùng đến 11 cây nhang, chớ không phải 9 cây nữa. "
Khi Đức Hộ Pháp trấn Thần tượng ảnh Tam Thánh xong, cả nhân viên tùng sự lui theo cửa hông trở ra, vòng ra cửa trước, đi vào HTĐ, thỉnh Thánh tượng đặt lên vách tường, ngó mặt ra trước cửa Đền Thánh.
Đức Hộ Pháp giải thích :

      1. Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn,
      2. Đức Thanh Sơn Đạo Sĩ,
      3. Đức Tôn Trung Sơn,
là đại diện của Hội Thánh Ngoại Giáo, các Ngài là những Thiên mạng truyền giáo Ngoại quốc (Missionnaires étrangers), cho nên tượng ảnh để ở Hiệp Thiên Đài, day mặt ra ngoài cho thiên hạ đều thấy mà hưởng ứng theo tiếng gọi thiêng liêng của các Ngài.
Cả 3 vị Thánh đều mặc cổ phục. Cái nghiên mực trên tay Đức Tôn Trung Sơn có hào quang chiếu diệu, tượng trưng sự rực rỡ của nền văn minh tối cổ Trung Hoa. Cái khuôn xi măng đúc trên vách HTĐ, từ ngày tạo tác Tổ đình, là để dành ngày nay đặt tượng ảnh Tam Thánh lên đó. Trước kia, Bần đạo cũng không hiểu để làm gì, chỉ biết tạo theo lịnh của Đức Lý Giáo Tông.
Ngày nay thời cuộc biến thiên, vị Hiền Tài LÊ MINH TÒNG ở Hải đảo trở về đây, Đức Lý truyền lịnh cho vẽ tượng ảnh nầy, mới hiểu rằng : Đức Lý chờ người mà Ngài cần dùng đến.
Trước tượng ảnh không có bàn thờ chi hết vì Chơn linh đã nhập vào đó như người sống vậy.
Kể từ ngày 10-7-Mậu Tý (dl 19-8-1948), tượng ảnh Tam Thánh đã đặt lên vách tường Hiệp Thiên Đài, là biểu hiệu cho Chủ nghĩa Đại Đồng của Đạo Cao Đài, mở đầu một giai đoạn tiếp dẫn chúng sanh Vạn quốc vào cửa Đại Đạo, mà cũng là ngày khởi đoan sự bành trướng ngoại giáo.
Cuộc lễ bế mạc lúc 9 giờ cùng ngày."
Trên bức họa Tam Thánh ký Hòa ước, chúng ta thấy :
- Đức Thanh Sơn Đạo Sĩ , tức là Trạng Trình Nguyễn bỉnh Khiêm, mặc triều phục của một văn quan Đại thần VN thuở xưa, Ngài cầm bút lông mèo viết vừa xong 8 chữ Nho, phiên âm là : Thiên thượng Thiên hạ - Bác ái Công bình.
- Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn, tức văn hào Victor Hugo, mặc áo mão giống vị Bá Tước Âu Châu thời Trung Cổ, vì Ngài là một Hàn Lâm Học Sĩ lúc bấy giờ. Ngài cầm bút lông ngỗng viết 6 chữ Pháp : Dieu et Humanité - Amour et Justice.
Sáu chữ Pháp nầy nghĩa là : Trời và Nhơn loại - Bác ái và Công bình.
- Đức Tôn Trung Sơn, tức là Tôn dật Tiên hay Tôn Văn của nước Trung Hoa, mặc quốc phục Trung Hoa, vì Ngài là nhà Đại Cách mạng đứng lên lật đổ chế độ Quân chủ của vua quan nhà Thanh, lập nên chế độ Dân chủ Cộng hòa với thuyết Tam Dân chủ nghĩa : Dân tộc, Dân quyền, Dân sinh.
Đức Tôn Trung Sơn cầm nghiên mực rực rỡ ánh hào quang, để cho 2 vị kia chấm bút vào mà viết ra chữ. Điều đó tượng trưng cho sự hiểu biết giữa Đông phương và Tây phương hòa hợp cùng nhau đặt trên nền tảng Triết lý Nho giáo của Đức Khổng Tử nước Trung Hoa.
Nghiên mực rực rỡ ánh hào quang tượng trưng nền văn minh Nho giáo của Trung Hoa rất rực rỡ vào thuở xưa.
Bản Thiên Nhơn Hòa Ước được viết lên tấm bảng đá cũng rực rỡ ánh hào quang, được 2 vị Thánh đứng đầu Bạch Vân Động viết ra để công bố cho toàn cả chúng sanh biết bằng 2 thứ chữ :
- Chữ Trung Hoa, cũng là chữ Nho của VN, là chữ viết có ảnh hưởng lớn ở vùng Á Đông.
- Chữ Pháp của nước Pháp ở Âu Châu, là chữ viết có nhiều ảnh hưởng ở các nước Tây Âu.
Nội dung của Bản Thiên Nhơn Hòa Ước nầy rất đơn giản, chưa có bản Hòa ước nào trên thế gian lại đơn giản hơn, vì nội dung chỉ gồm có 4 chữ : BÁC ÁI - CÔNG BÌNH.
Tam Thánh công bố Bản Thiên Nhơn Hòa Ước nầy để chúng sanh biết rõ sự Cam Kết giữa Thượng Đế và Nhơn loại.
Người nào trong nhơn loại mà thực thi 4 chữ nầy được trọn vẹn thì Thượng Đế sẽ rước về cõi Thiêng liêng để ban thưởng cho những phẩm vị Thánh, Tiên, Phật tương xứng.
Còn nếu Nhơn loại không thực hiện được 4 chữ nầy, mà lại làm nhiều điều trái ngược thì sẽ bị đọa, không thể kêu nài được nữa.
Đức Chí Tôn mở Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ cũng chỉ có mục đích dạy dỗ nhơn sanh thực hiện 4 chữ BÁC ÁI và CÔNG BÌNH trong tờ Hòa ước nói trên.
                             Thiên Nhơn Hòa Ước


Thiên Nhơn Hòa Ước là bản Hòa ước giữa Trời và Người, tức là giữa Thượng Đế và Nhơn loại.
Như vậy, trong bản Hòa Ước nầy, một bên là Trời, tức là Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế, và một bên là Nhơn loại, hai bên thỏa thuận ký kết với nhau.
+ Nhưng Đức Chí Tôn ở cõi Thiêng liêng vô hình, làm sao ký kết Hòa Ước với Nhơn loại nơi cõi hữu hình ?
Thật ra, Đức Chí Tôn ký Thiên Nhơn Hòa Ước với Vạn linh nơi cõi thiêng liêng. Vạn linh nầy đầu kiếp xuống cõi trần làm chúng sanh. Trong chúng sanh, Nhơn loại ở phẩm cao hơn hết, nên xứng đáng đại diện cho chúng sanh. Cho nên, Đức Chí Tôn ký Hòa ước với Vạn linh, tức là ký Hòa ước với Nhơn loại vậy.
+ Bản Thiên Nhơn Hòa Ước nầy ký vào năm nào ?
Đức Chí Tôn ký bản Thiên Nhơn Hòa Ước nầy kể từ khi Đức Chí Tôn mở lòng Đại từ Đại bi Đại khai Ân Xá mở Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ vào năm Bính Dần (1926) cứu vớt nhơn sanh trong thời kỳ cuối Hạ nguơn Tam Chuyển, trước khi mở Đại Hội Long Hoa.
+ Kể từ khi có Nhơn loại đến nay, có bao nhiêu lần Đức Chí Tôn ký Hòa ước với Nhơn loại ?
Kể từ khi có nhơn loại trên quả Địa cầu đến nay, giữa Trời và Người, đã có 3 lần ký Thiên Nhơn Hòa Ước, tương ứng với 3 thời kỳ Phổ độ :
- Đệ nhứt Thiên Nhơn Hòa Ước được ký kết lúc mở Nhứt Kỳ Phổ Độ.
- Đệ nhị Thiên Nhơn Hòa Ước được ký kết lúc mở Nhị Kỳ Phổ Độ.
- Đệ tam Thiên Nhơn Hòa Ước được ký kết lúc mở Tam Kỳ Phổ Độ.

1. Đệ nhứt Thiên Nhơn Hòa Ước :

Khi loài người mới xuất hiện trên quả Địa cầu nầy, thì đó là các Hóa nhân, do loài cầm thú cao cấp tiến hóa lên, nên còn mang ít nhiều thú tánh, nhưng bản chất sống rất hồn nhiên. Đức Chí Tôn Thượng Đế liền cho 100 ức Nguyên nhân giáng trần để khai hóa đám Hóa nhân ấy, cho có được đời sống văn minh, có đạo đức và luân lý. (1 ức là 1 trăm ngàn, 100 ức là 10 triệu).
Nhưng loài người càng tiến bộ về đường vật chất thì càng xa dần đạo đức, các Nguyên nhân lại nhiễm trược trần, nên không thể trở về cõi Thiêng liêng. Đức Chí Tôn thương xót, muốn cứu vớt đám Nguyên nhân nầy, nên mở ra Nhứt Kỳ Phổ Độ, khai Đạo Thánh tại nước Do Thái với Ông Môi-se làm Thiên sứ, công bố Đệ Nhứt Thiên Nhơn Hòa Ước.
Bản Đệ nhứt Thiên Nhơn Hòa ước nầy chính là 10 Điều Răn mà Đức Chúa Trời (Thượng Đế) đã ban cho Ông Môi-se trên đỉnh núi Si-nai nước Do Thái. Thánh Môi-se công bố bản Đệ nhứt Thiên Nhơn Hòa Ước nầy cho dân chúng biết, nếu ai giữ đúng 10 Điều Răn nầy thì sẽ được Đức Chúa Trời ban cho phẩm tước xứng đáng và rước về Thiên đường sống đời đời hạnh phúc.
Nếu người nào không tu, chẳng giữ được 10 Điều Răn, lại phỉ báng tôn giáo, thì phải bị đọa vào Địa ngục, hoặc bị luân hồi trở lại cõi trần mà đền bồi tội lỗi.
Bản Đệ nhứt Thiên Nhơn Hòa Ước được người đời nay gọi là CỰU ƯỚC, được chép trong Thánh Kinh của Đạo Do Thái, mà về sau, Thiên Chúa giáo và Đạo Tin Lành đều nhìn nhận.
Những tôn giáo mở ra trong thời Nhứt Kỳ Phổ Độ với Đệ Nhứt Thiên Nhơn Hòa Ước chỉ độ được 6 ức Nguyên nhân trở về cựu vị nơi cõi Thiêng liêng, còn lại 94 ức Nguyên nhân chìm đắm trong cõi trần.

2. Đệ nhị Thiên Nhơn Hòa Ước

: Phần lớn nhơn loại vẫn say đắm mùi trần, không lưu tâm đến linh hồn, không kể chi đến việc tu hành. Các mối đạo mà Đấng Thượng Đế đã cho mở ra vào thời Nhứt Kỳ Phổ Độ đã bị nhơn loại sửa cải làm sai lạc chơn truyền, khiến nhiều người tu lầm lạc.
Đức Thượng Đế với lòng Đại từ Đại bi mở ra Nhị Kỳ Phổ Độ, cho các Đấng Tiên Phật giáng trần, lập ra nhiều mối đạo trên khắp hoàn cầu, với Đệ Nhị Thiên Nhơn Hòa Ước, mà Đức Chúa Jésus (Gia Tô Giáo Chủ) lãnh nhiệm vụ công bố cho nhơn loại rõ. Bản Đệ Nhị Thiên Nhơn Hòa Ước nầy lúc đó được gọi là TÂN ƯỚC (để đối lại với Cựu Ước thời Ông Môi-se).
Các mối đạo được mở ra trong thời Nhị Kỳ Phổ Độ là :
- Đạo Thiên Chúa ở Trung Đông và Âu Châu.
- Phật giáo ở nước Ấn Độ.
- Lão giáo và Khổng giáo ở nước Trung Hoa.
- Thần giáo ở Trung Hoa, Ai Cập, Hy Lạp, Nhựt bổn.
- Hồi giáo ở các nước Á Rập Trung Đông.
Trong thời Nhị Kỳ Phổ Độ, nhơn loại càng bị thâm nhiễm trược trần hơn thời Nhứt Kỳ Phổ Độ, nên số người quay về đường đạo đức vẫn còn quá ít so với số nhơn loại. Nhị Kỳ Phổ Độ chỉ cứu độ được 2 ức Nguyên nhân. Như vậy, vẫn còn 92 ức Nguyên nhân đang trầm luân nơi cõi trần.

3. Đệ tam Thiên Nhơn Hòa Ước

: Các nền tôn giáo mở ra thời Nhị Kỳ Phổ Độ, sau mấy ngàn năm truyền bá cứu độ nhơn sanh, lần lần bị người đời sửa cải làm sai lạc chơn truyền, nên tất cả các tôn giáo ấy đều bị Thiên điều bế lại, người tu thì nhiều mà vì lầm lạc nên đắc quả rất ít.
Nhơn loại đồng lòng kêu nài lên Đấng Thượng Đế : " Các nền tôn giáo thuở trước đã bị Ngọc Hư Cung, chiếu theo Thiên điều, bế lại hết, mà Phật giáo vô ngôn. Đức Chí Tôn lại không cho khai đạo mới thì nhơn sanh biết đường đâu mà tu hành, biết đường nào lành mà đi theo, biết đường nào dữ mà tránh."
Bởi đó, Đức Chí Tôn mở lòng đại từ đại bi lần thứ 3, khai Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, ký với nhơn loại một tờ Hòa Ước thứ 3, gọi là Đệ Tam Thiên Nhơn Hòa Ước, giao cho 3 vị Thánh đứng đầu Bạch Vân Động nơi cõi Thiêng liêng, viết ra công bố cho toàn nhơn loại rõ, đồng thời Đức Chí Tôn ra lịnh cho Tam Thánh làm Thiên sứ hướng dẫn nhơn loại khắp hoàn cầu đi vào con đường Đại Đạo.
Tại sao Đức Chí Tôn không chọn ai khác để công bố Đệ Tam Thiên Nhơn Hòa Ước, mà lại chọn Tam Thánh Bạch Vân Động ?
Bởi vì chư Thánh có nhiệm vụ Thể Thiên Hành Hóa, điều hành tất cả các hoạt động của Càn khôn Vũ trụ. Cho nên Đức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo nói rằng : " Bần đạo nói, họ đương nói chuyện mà trên đầu họ muôn ánh hào quang xẹt tứ tung ở không trung, họ đương nói chuyện ở đây mà họ đương điều hành tới các địa giới khác, cả CKVT." (Con đường Thiêng liêng Hằng sống, trang 8).
Mặt khác, bực Thánh đứng trung gian giữa Trời và Người trong nấc thang tiến hóa của Vạn linh, nên Tam Thánh Bạch Vân Động đại diện chư Thánh, được Đức Chí Tôn chọn để công bố Đệ Tam Thiên Nhơn Hòa Ước là một điều hợp lý.
Chọn 3 vị Thánh của 3 nước có ân oán với nhau : một là Trạng Trình Nguyễn bỉnh Khiêm, người Việt Nam; hai là Victor Hugo, người Pháp; ba là Tôn dật Tiên, người Trung Hoa; để có ý chỉ rằng, Đức Chí Tôn muốn nhơn loại xóa bỏ hết các ân oán dân tộc, nhìn nhau là anh em một nhà, đồng là con cái của Đức Chí Tôn để tiến tới một xã hội đại đồng trong tình thương yêu huynh đệ và công bằng, tạo lập thời kỳ Thượng nguơn Thánh đức. (Nói rằng 3 nước nầy có ân oán với nhau là bởi vì theo dòng lịch sử, Việt Nam bị Trung Hoa đô hộ 1000 năm và bị nước Pháp đô hộ 80 năm).
Nội dung của bản Đệ Tam Thiên Nhơn Hòa Ước được Tam Thánh Bạch Vân Động công bố bằng 2 thứ ngôn ngữ quan trọng nhứt là :
- Chữ Trung Hoa, cũng là chữ Nho của Viêt nam, là chữ viết quan trọng phổ biến của giống dân da vàng.
- Chữ Pháp, là chữ viết quan trọng của giống dân da trắng ở Châu Âu và Bắc Mỹ Châu.
- Đức Thanh Sơn Đạo Sĩ tức Trạng Trình Nguyễn bỉnh Khiêm viết chữ Nho, phiên âm ra tiếng Việt là :
" THIÊN THƯỢNG THIÊN HAÏ BÁC ÁI CÔNG BÌNH"
- Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn tức Victor Hugo, viết chữ Pháp :
" DIEU et HUMANITÉ AMOUR et JUSTICE"
Đệ Tam Thiên Nhơn Hòa Ước rất đơn giản, chỉ gồm 4 chữ :
BÁC ÁI - CÔNG BÌNH, hay AMOUR et JUSTICE.
Giải Thích :
Thiên thượng : Trên Trời, tức là Thượng Đế (Dieu).
Thiên hạ : Dưới Trời, tức là Nhơn loại (Humanité).
Bác ái : (Amour) " Bác ái là hay thương xót sanh linh hơn thân mình. Cho nên, kẻ có lòng Bác ái coi mình nhẹ hơn mảy lông mà coi Thiên hạ trọng bằng Trời Đất." (TNHT)
Công bình : (Justice) Không nghiêng về bên nào, không có ý riêng tư, theo đúng Đạo lý.
Theo bản Hòa Ước nầy, Đức Chí Tôn cam kết với Nhơn loại, nếu người nào thực thi được 4 chữ Bác ái - Công bình, thì Đức Chí Tôn rước về cõi Thiêng liêng Hằng sống, được ban thưởng các ngôi vị Thần Thánh Tiên Phật, thoát khỏi Luân hồi; còn nếu không thực hiện được 4 chữ nầy thì phải bị đọa Luân hồi, không được đổ thừa hay khiếu nại vào đâu được nữa.
Đức Chí Tôn lại ban cho một ơn huệ đặc biệt là Đại Ân Xá : " Nên Thầy cho một quyền rộng rãi cho cả nhơn loại Càn khôn Thế giới, nếu biết ngộ kiếp một đời tu, đủ trở về cùng Thầy đặng." (TNHT)
Nhơn loại muốn thực hiện được bản Đệ Tam Thiên Nhơn Hòa Ước nói trên thì phải nhập môn vào Đạo Cao Đài, tùng giáo Đức Chí Tôn, lo việc tu hành. Do đó, Đức Chí Tôn mở Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ tức là Đạo Cao Đài, lấy 4 chữ : Bác ái - Công bình làm tiêu chuẩn cho Luật và Quyền trong việc phổ độ nhơn sanh :

      - Luật là Bác ái (Thương yêu),
      - Quyền là Công bình (Công chánh).

" Các liệt cường ký với nhau khoản nầy khoản nọ, khoản kia đủ thứ, ký không biết bao nhiêu khoản; với Đức Chí Tôn chỉ có 2 khoản thôi :
1./ LUẬT : Thương yêu. Ngài định luật cho chúng ta là Thương yêu. Không phải thương yêu nhơn loại mà thôi, mà phải thương yêu toàn cả Vạn linh nữa.
2./ QUYỀN : Ngài chỉ định là Quyền Công chánh.
Từ thử, ta chưa thấy Hòa ước nào đơn sơ như thế." (Trích trong thuyết đạo của Đức Hộ Pháp, Quyển 2 trang 168)
" Đức Chí Tôn Ngài đến, do tay Ngài ký một Hòa ước với một sắc dân nô lệ, sắc dân hèn mọn, đặng Ngài nài nỉ xin cho đặng 2 điều trọng yếu làm cho nhơn loại sống tồn tại là : Luật Thương yêu và Quyền Công chánh.
Ngài đã ký, Ngài đã hứa với Thánh thể của Ngài, tức nhiên là cả quốc dân nầy đặng tạo ra hình ảnh Luật Thương yêu. Nếu toàn cả quốc dân VN lấy Quyền Công chánh làm thành tướng ra, rồi Ngài sẽ lấy tướng diện của nó Ngài làm môn thuốc cứu sanh mạng của nhơn loại đó vậy."
" Ngài đã ký kết với nhơn loại bản Hòa Ước thứ ba.
Hai Hòa Ước kỳ trước, nhơn loại đã phản bội, không giữ sở tín của mình, vì cớ cho nên phải thất Đạo, nhơn loại đi trong con đường diệt vong, tương tranh tương sát nhau.
Vì lòng bác ái từ bi, Đức Chí Tôn đến ký Hòa Ước thứ ba nữa để trong Luật điều. Chúng ta thấy các Đấng Thiêng liêng chỉ tấm tượng Tam Thánh biểu nhơn loại tín ngưỡng : Thiên thượng Thiên hạ, về Luật có Bác ái, Pháp có Công bình, ngoài ra dầu luật pháp muôn ngàn hình tướng, Hội Thánh Đạo Cao Đài dìu dẫn tâm lý nhơn sanh, chỉ dẫn họ vô mặt luật tối cao là Luật Bác ái và vô một nền Chơn pháp tối trọng là Pháp Công bình.
Luật pháp của Đạo Cao Đài, ngoài Luật Bác ái và Pháp Công bình, tất cả luật điều khác đều là phương pháp lấy giả tạo chơn mà thôi." (Thuyết đạo của Đức Phạm Hộ Pháp)
Nội dung của Đệ Tam Thiên Nhơn Hòa Ước gồm 4 chữ rất đơn sơ, nhưng muốn thực hiện trọn vẹn 4 chữ đó không phải là điều dễ dàng, mà cũng không phải quá khó khăn để không thể thực hiện được.
Có lòng Bác ái mới rõ lẽ Công bình. Muốn có lòng bác ái, phải có lòng nhân, phải biết bố thí. Sự bố thí làm cho ta có sự cảm xúc tinh thần trước những nỗi đau khổ của nhơn sanh. Từ đó, chúng ta mới thể hiện được tình thương yêu trên muôn loài vạn vật, tức là Bác ái vậy, và nhờ đó, chúng ta mới biết rõ được lẽ Công bình của Tạo Hóa.
Nói một cách khác, muốn thực hiện Bác ái và Công bình thì chúng ta phải làm Công Quả phụng sự chúng sanh. Nói như thế tức là việc làm Công Quả phụng sự chúng sanh là hình thức tốt nhất để thực thi Bác ái và Công bình, tức là thực thi Đệ Tam Thiên Nhơn Hòa Ước vậy. Mà thực thi được Đệ Tam Thiên Nhơn Hòa Ước là đắc đạo và được Đức Chí Tôn rước về Bạch Ngọc Kinh.
Bởi lẽ đó mà Đức Chí Tôn nhiều lần dạy bảo và khuyên nhủ nhơn sanh phải lo làm Công Quả.
" Thầy đến độ rỗi các con là lập thành một Trường Công đức cho các con nên đạo. Vậy đắc đạo cùng chăng là tại nơi các con muốn cùng chẳng muốn. Nếu chẳng đi đến Trường Thầy lập mà đoạt thủ địa vị mình thì chẳng đi nơi nào khác mà đắc đạo bao giờ." (TNHT)
" Vì vậy mà Thầy hằng nói cùng các con rằng : Một Trường thi Công Quả, các con muốn đến đặng nơi Cực Lạc thì phải đi tại cửa nầy mà thôi." (TNHT)


                                                                            
Tam Thánh ký hòa ước -hình ảnh tại Tòa Thánh Tây Ninh
                                            

Tòa Thánh, ngày 10-7-Mậu Tý (dl 19-8-1948).
Luật Sự VÕ QUANG TÂM tường thuật.

DIEU et HUMANITÉ - AMOUR et JUSTICE

Thiên thượng Thiên hạ - Bác ái Công bình

Twitter Delicious Facebook Digg Stumbleupon Favorites More