9. Đức Hộ Pháp
Thuyết Đạo Tại Đền Thánh
đêm 8 tháng 06 Năm Kỹ-Sửu
Đêm
nay trước khi Bần-Đạo thuyết Bí-Pháp chơn-truyền của Đạo, tương-liên Thể-Pháp
của Đạo thế nào, trước khi thuyết Bần-Đạo nhắc lại nữa, nhắc một điều cần yếu
cho cả thảy đều nhớ, nhớ để đi theo.
Trước
khi trong tinh-thần Đạo-Đức kia chỉ dẫn chơn-pháp Càn-Khôn Vũ-Trụ cốt định cho
loài người có hiện-diện tại nơi thế này đặng phụng-sự cho Vạn-Linh, mà cũng là
dẫn đạo cho Vạn-Linh.
Phụng-sự
đặng dẫn đạo cho Vạn-Linh, ấy vậy chơn-pháp có ảnh-hưởng là quyết-định thiệt
phận của loài người là phải phụng-sự mà thôi. Hễ không phụng sự tức-nhiên là vô
Đạo, mà vô Đạo thì không thể gì đoạt được cơ giải-thoát hết.
Bần-Đạo
đã chỉ rõ tương quan của luật-pháp Đời cốt yếu nương theo"
Tứ-diệu-đề" tức nhiên Tứ-Khổ, đặng rồi thiên-hạ dầu Quốc-Gia xã-hội nào
cũng kiếm phương bợ đở tinh-thần loài người hay là toàn dân trong nước đặng lập
vị của mình.
Thật
sự ra, nói rằng: Họ đã tạo dựng Đạo-Giáo đặng phụng-sự cho dân, nhưng thật sự
đi trong đường nào? Lấy tinh-thần cứu khổ của Đạo-Giáo mà kỳ trung họ không
phụng-sự Quốc dân, chỉ tạo quyền cho họ mà thôi, tức nhiên họ không phải vì sở
định cứu khổ mà đến để lập quyền cho vững chắc. Nhưng Đạo-Giáo chúng ta thì
khác.
Đạo-Giáo
chúng ta buộc phải định phận mình là giải-khổ tức-nhiên phải làm thế nào cứu
vớt quần linh cho khỏi " Tứ-diệu-đề" tức nhiên Tứ-Khổ của kiếp sanh
đó vậy. Hai cái tinh thần ấy dầu trong hành tàng cũng vậy, vẫn khác hẳn với
nhau vì cớ cho nên Đạo với Đời không có bao giờ tương đắc với nhau đặng. Bần-Đạo
nói Đạo không phải giành quyền, mà chỉ tạo Đạo đặng định phận mà thôi.
Bên
kia họ cho rằng: Đạo giành quyền của họ, trái hẳn chúng ta vẫn thường thấy,
chính mình Đức-Phật Thích-Ca đến khi Ngài có quyền, chính cha của Ngài còn
tranh giành cái quyền ấy. Về quyền hành có điều khó giải quyết hơn hết là; cả
tinh thần chúng sanh, cả thảy đều biết rằng Đạo phải phụng-sự cho nhơn-loại, vì
đấy mà bên Đời dầu thế nào đi nữa bất quá là lòe con mắt đặng cho người ta
theo, chớ không phải như bên Đạo phải phụng sự.
Bởi cớ
cho nên mới dục ra tấn-tuồng giành quyền với nhau là vì chỗ đó.
À !
Bây giờ Bần-Đạo nói rõ phải ra phụng sự đặng giải khổ tức-nhiên giải quyết
"Tứ-diệu-đề" của Đức Phật Thích-Ca đã để nơi mặt địa-cầu này.
Bần-Đạo
thuyết cả Bí-Pháp Đạo-Giáo có liên-quan mật thiết với Thể-Pháp rồi cả thảy đều
nghĩ từ thử đến giờ, Bần-Đạo buộc phải đi cúng, phải hành Đạo là thế nào, không
phải buộc mấy người mà Bần-Đạo hưởng một quyền lợi gì riêng hết, mấy người suy
đoán chơn-pháp rồi mấy người mới biết. Bần-Đạo vì phận sự muốn cho con cái của
Đức-Chí-Tôn tạo cơ giải thoát nên mới buộc gắt gao như vậy thôi.
Vả
chăng trong chơn-pháp, con người nơi mặt thế này có ba điều.
1.-
Hoặc là phải trả quả kiếp xuống tại mặt địa-cầu này để trả.
2.-
Hoặc muốn học hỏi thêm, muốn tấn hóa tới nữa về phương lược địa vị tinh-thần
của mình còn thiếu kém, học thì đến mặt địa-cầu này đặng học.
3.-
Các vị đã được địa vị cao siêu nơi cảnh Thiêng-Liêng Hằng-Sống đến mặt địa-cầu
này đặng lập vị mình thêm cho đặng cao trọng.
Ba
điều ấy muốn đoạt được thì phải phụng-sự Vạn-Linh mới được. Bần-Đạo thuyết tới
con cái của Đức-Chí-Tôn sẽ ngó thấy Đức-Chí-Tôn không dùng quyền Chí Tôn của
Ngài. Ngài đến đặng lập quyền cho con cái của Ngài mà thôi, không phải đến lập
quyền hành hoặc bảo-vệ con cái của Ngài, Ngài không thế gì để cho con cái
Đức-Chí-Tôn lạm quyền đặng.
Cơ
quan giải-thoát là phụng sự, dầu cho quả kiếp mà đến cũng vậy; dầu cho vì học
hỏi mà đến cũng vậy; dầu cho lập vị mà đến cũng vậy. Chúng ta phải phụng sự cho
Vạn-Linh mới được, trong phụng sự ấy chúng ta không biết chúng ta bị quả kiếp
nơi nào, người nào, nhưng nhờ phụng sự ấy mà mình gặp được người mình muốn trả
nợ tiền-khiên, biết đâu nhờ hồng ân Đức-Chí-Tôn định cho mình gặp đúng người để
đặng trả. Tóm lại, cũng phải phụng sự mới có.
Bây
giờ về học hỏi thì chúng ta muốn gì? Muốn biết mọi điều về huyền vi cơ-tạo,
muốn biết cho đặng thì phải phụng sự cho Vạn-Linh mà thôi; rồi trong phụng-sự
ấy nó sẽ chỉ điều cho chúng ta muốn biết mà lập vị, và có gì hơn thay thế cho
Đức-Chí-Tôn mà phụng sự cho Vạn linh lập vị ấy không thế gì ai chối cãi được.
Muốn
làm cho đặng như Đức-Chí-Tôn đã làm ta phải làm gì ? Ngài biểu chúng ta hiến ba
món báu trong mình chúng ta là Tam-Bửu.
1.-
Xác thịt
2.-
Trí não
3.-
Linh hồn
Tức
nhiên thân thể và phàm thể của chúng ta, Đức-Chí-Tôn biểu ta hiến cho Ngài đặng
Ngài phụng sự cho Vạn-Linh.
Chúng
ta thấy gì? Mỗi ngày ta kêu Đức-Chí-Tôn làm chứng, kêu Tam-Giáo làm chứng, giờ
phút này con nguyện dâng cả xác thịt, trí não và linh hồn của con cho Thầy đặng
Thầy làm lợi khí mà phụng sự cho Vạn-linh. Hễ dâng rồi còn gì của mình nữa, có
trả nợ tiền khiên chớ không có tạo nữa; nếu có tạo mà giờ phút này mình đến
Đền-Thánh này đây, ngồi trong lòng của Đức-Chí-Tôn đứng trong phần tử Thánh-Thể
của Ngài tình cờ mình bị quả kiếp gì xảy đến, mình không biết, vì thân thể mình
không biết duy chủ nữa mà chính Đức-Chí-Tôn duy chủ, vì mình giao cả thân-thể
mình nơi tay Đức-Chí-Tôn thì mình không còn biết gì nữa. Ngày kia mình có thể
nói mỗi hành tàng của con làm, con đã tạo, con giao cả trong tay Đại-Từ-Phụ,
quyền hạn xử định do nơi tay Thầy chớ con không biết.
Mình
giao cả hình hài đó cho Ngài xử dụng, nếu sự thật có gì không hay xảy tới cho
mình, mình không hiểu, mình giao cả thân thể mình cho Đức-Chí-Tôn đặng
Đức-Chí-Tôn phụng sự cho vạn linh quyền xử dụng ấy do Đức-Chí-Tôn quyết định,
mình đừng làm trái với mặt luật của Ngài định.
Ấy
vậy, mỗi ngày từ mơi tới trưa, đến chiều, từ chiều đến khuya, từ khuya tới
sáng, mình vô Đền-Thánh kêu Đức-Chí-Tôn, kêu Tam Giáo và các Đấng Thiêng-liêng
mà phân chứng trước. Thân tôi không còn của tôi nữa, tôi đã hiến cho
Đức-Chí-Tôn làm tôi tớ cho Vạn-Linh thay thế cho Đức-Chí-Tôn, giờ phút đó chúng
ta không biết tội nào chúng ta đã làm dầu có tội mà chúng ta không làm điều gì
thêm nữa thì quả kiếp ấy tiêu diệt, cơ quan giải thoát chúng ta đoạt không thể
gì định tội được. Đức-Chí-Tôn biểu chúng ta không phải là chúng ta; mà chúng ta
không phải là chúng ta thì quả kiếp ấy không phải là của chúng ta tức nhiên ta
đã đoạt cơ giải thoát, quyền ấy chính của ta chớ không phải của Đức-Chí-Tôn.
Lấy quyền của ta mà cho ta, mình đã định quyền cho mình, chớ không phải Ngài
định; Ngài định cho có quyền giải thoát, quyền Thiêng-Liêng không có tạo, chính
ta tạo quyền giải thoát đó do nơi ta mà thôi.
10. Đức Hộ Pháp
Thuyết Đạo Tại Đền Thánh
đêm 11 tháng 6 Năm Kỷ-Sửu
Đêm
nay Bần-Đạo giảng tiếp sự liên quan Thể-Pháp và Bí-Pháp của Đạo. Trước khi
Bần-Đạo giảng tại sao Đức-Chí-Tôn lập hình thể hữu-hình đặng Ngài tạo Đạo.
Đêm
nay Bần-Đạo giảng đặng cho cả thảy đều hiểu rõ Thánh-Thể làgì ? Tại sao lấy Tam
Bửu ấy là trong người của ta để làm Thánh thể, cả thảy Tam bửu là có một, mà
một do ba người hiệp nhứt, cũng như Càn-Khôn Vũ-Trụ sản xuất ba quyền Phật,
Pháp, Tăng trong đó có ba người, nhưng trong ba người chỉ có một là Đức Chí Tôn
mà thôi.
-
Người thứ nhứt là ta hay là thể chất tức-nhiên thân-thể của ta đây.
-
Người thứ nhì là chơn-thần tức là trí-não của ta hay là pháp thân; Pháp thân ấy
do nơi Kim-Bàn phát hiện, tức nhiên do nơi Phật-Mẫu sanh đẻ ra đó vậy.
-
Người thứ ba là chơn linh tức linh-hồn của ta hay linh-thể của chúng ta do nơi
Đức-Chí-Tôn sản-xuất, ba món ấy hiệp lại mới thành người. Linh thể của chúng ta
từ trước Đạo-Giáo của nhà Phật do Ấn-Độ sản-xuất, tức-nhiên Đức-Phật Thích-Ca
đã minh tỏa thể-chất có ba người, Ngài gọi nguyên chất là ( Égo ) người thiệt
của chúng ta, tới chừng đem qua Bắc Tông rồi, tức-nhiên họ qua Nho Giáo.
Nho-Giáo không có tên mới đặt linh-thể ấy là Tâm lấy tâm đặt tên chơn-thể, chữ
tâm ấy do tướng-hình Thiên Lương vi bổn.
Một
vật hễ sản-xuất tại mặt địa-cầu nầy đứng trong khuôn-khổ Đạo-Giáo tức nhiên
Thiên-Lương của mình, Thiên Lương ấy không tướng hình nên để chữ Tâm. Ấy vậy,
chữ Tâm ở bên Bắc-Tông Phật-Giáo tỏa hình Linh-Thể của chúng ta đó vậy, tức
nhiên tỏa hình chơn linh của chúng ta, do nơi Đức-Chí-Tôn sản xuất. Ấy vậy ba
người trong thân thể chúng ta đang gánh chịu đó ; khi được hình rồi, có hiện
tượng tại mặt thế này rồi thì chúng ta ngó thấy chúng ta có ba mối nợ.
Mối nợ
của cha mẹ thân sanh ra ta, sản xuất ra ta, là mối nợ trước phải trả. Nếu khi
ta đoạt kiếp được, lập vị Thiêng-liêng của mình đặng vô cửa Thiêng-liêng Hằng
Sống mà đàng sau lưng của mình có mang ba mối nợ thì vô cửa ai cho, phải trả
cho rồi mới vô đặng.
Vì cớ
cho nên Đức-Chí-Tôn biểu mình phụng-sự cho Vạn-Linh, đặng trả nợ thi hài của
mình, tức nhiên trả nợ máu thịt của mình, nợ ấy ta nhận là công chánh hay oan
khúc cho ta? Thì chúng ta ngó thấy nó rất công-chánh, một giọt Máu, một điểm
Tinh của chúng ta thọ nơi phụ mẫu chúng ta, rồi cha mẹ của ta đã thọ của người
trên trước nữa, cũng một giọt Máu, cũng một điểm Tinh mà tạo nên thi hài. Cha
mẹ đã thọ nơi Ông Bà Tổ Phụ của chúng ta, rồi giọt Máu, điểm Tinh ấy truyền
thống cho chúng ta, ta phải chịu khi ấy phải trả, mà trả thì phải khổ cho ta
lắm, nếu chạy thì cha mẹ chúng ta phải trả.
Rồi
khi cha mẹ sanh ra ta, ta phải nhờ ai mà sống, nhờ ai mà nên người, nhờ ai mà
có. Chúng ta sản xuất tại mặt thế gian này tức nhiên nhờ xã-hội nhơn-quần, nhờ
ăn mới sống thi-hài thân-thể mới giữ đặng giọt Máu, điểm Tinh, để truyền thống?
Trả đủ nợ ấy cho xã-hội nhơn-quần mới về cảnh Thiêng-Liêng Hằng Sống được. Quả
nhiên chúng ta thiếu nợ hay là Tổ Phụ Ông Bà chúng ta thiếu nợ nên chúng ta
phải trả; muốn trả phải phụng-sự cho xã-hội nhơn-quần. Đức-Chí-Tôn coi trọng hệ
nhứt, nên Ngài mới lập trường công quả này đây. Chỉ có làm công quả nơi của Đạo
Cao-Đài nầy mới trả hết số nợ đó mà thôi.
Tiếp
sau đây Bần-Đạo sẽ giảng tại sao có mở trường công-quả trong thời buổi này? Ấy
là nơi để chúng ta tạo công, rồi lấy công trả nợ máu thịt mà trả nợ máu thịt
tức trả cho xã-hội nhơn-quần đó vậy.
Phụng
thờ Tổ-Tiên Ông Bà và Song Thân đó, do Đạo Nhơn Luân Vi Bổn. Mang nợ máu thịt
ấy phải trả tức-nhiên làm công quả để lấy công quả trả nợ máu thịt đó vậy.
Xã-hội
chúng ta vẫn thấy từ thử đến giờ, chúng sanh vẫn chạy nợ, dầu muốn dầu không họ
vẫn trốn nợ bất kỳ là nợ gì? Cho nên Đức-Chí-Tôn vi chứng rằng: Bây phải trả nợ
mà bây đã vay từ trước. Ngài truyền tức nhiên Ngài truyền cho xã-hội nhơn-quần,
vì trong Thiên Tánh của Ngài định cho chúng ta trả nợ, mà muốn cho ta dể trả nợ
Ngài bảo chúng ta phải làm thế nào? Chúng ta duy có phụng sự mà thôi. Vì cớ cho
nên Ngài lập Đạo là vậy. Trả nợ nhơn-quần xã-hội rồi mới chỉ có một mối, còn
hai mối nợ nữa phải trả chớ, nợ của người sản-xuất ra chơn-thần, là Mẹ đẻ pháp
thân tức nhiên Phật Mẫu đó vậy.
Bây
giờ Đức-Chí-Tôn Ngài đến đặng Ngài nhìn nhận con cái của Ngài. Đức-Chí-Tôn bảo
Đức Phật-Mẫu bà là chủ nợ Bà phải đòi, kêu chúng nó đến trước mặt Bà mà trả cho
Bà. Bà đừng để cho nó thiếu nợ mà nó giải thoát không đặng. Ngài đến mở Đạo
nhìn chúng ta là con cái; con cái của Ngài nhìn chủ nợ là Bà, thì chúng ta phải
trả, vì cớ cho nên chúng ta thờ phượng Phật-Mẫu là vậy. Chúng ta đến bái lạy
Ngài thì chúng ta cũng nguyện dâng cả thi hài, chơn-thần và chơn-linh của ta
đặng làm môi giới cho Ngài tạo Đạo, cũng như Đức-Chí-Tôn vậy. Chúng ta trả nợ
Đức-Chí-Tôn ra sao thì đối với Phật-Mẫu cũng như thế ấy.
Còn nợ
thứ ba nữa là: Nợ đối với Đức-Chí-Tôn. Ngài đã ban cho ta một điểm Chơn Linh
của Ngài, tức nhiên chúng ta do nơi Ngài mà sản xuất. Linh Tánh của chúng ta
Linh hơn vạn-vật, vì có tánh Trời ở trổng.
Bần-Đạo
thuyết minh rằng: Con thú này có Ông Trời ở trổng. Oång đồng sống với nó. Có
Ông Trời đồng sống trong Tánh Linh ấy, mà muốn trả nợ với Đức-Chí-Tôn do nhứt
điểm chơn-linh của Ngài sản-xuất thì chúng ta phải làm như Ngài đã làm, đặng kế
nghiệp cho Ngài, mà làm như điều của Ngài đã làm. Ở chúng ta không thể gì định
được sự trả nợ của các Ngài, sự làm của Ngài có ảnh hưởng thanh túy, tức nhiên
là hy-sinh Vạn-Linh mà phụng-sự Vạn-Linh. Chúng ta phải học ở Ngài, cái tánh
chất mà Ngài đã làm để chúng ta phụng sự cho Vạn-Linh, như Ngài đã phụng-sự
chúng ta thấy trước mặt không thể gì chối cải đặng. Chúng ta thiếu nợ Nhứt Điểm
Linh, chúng ta muốn trả nợ phải trả như Ngài; mà muốn trả nợ Vạn linh Ngài phải
làm tôi tớ cho Vạn-Linh. Chúng ta vẫn ngó thấy, chúng ta muốn trả nợ cho Ngài
thì chúng ta phải làm tôi-tớ cho Vạn-Linh như Ngài đã làm. Chúng ta phải làm
Thầy Vạn-Linh như Ngài đã làm Thầy của Vạn-Linh.
Chúng
ta trả ba món nợ ấy được rồi, tới ngày chúng ta giải thể của chúng ta, trở về
cảnh Thiêng-Liêng Hằng Sống nhập vô Niết-Bàn-Cảnh, không còn ai níu lưng nữa.
Phải trả nợ ấy rồi mới vô bởi vì chúng ta đã trả rồi.
11. Đức Hộ Pháp
Thuyết Đạo Tại Đền
Thánh đêm 18 tháng 06 Năm Kỷ-Sửu
Trước
khi Bần-Đạo thuyết về Bí-Pháp chơn truyền của Đạo, Bần-Đạo đã kết luận cái phản
khắc Đạo-Pháp, Thể-Pháp, tức nhiên sự phản khắc của Đời và Đạo. Sự phản khắc ấy
do nơi Nguyên-khí mà ra, không phải vì Nguyên-khí trong Vạn-Linh mà thôi,
Nguyên-khí của vạn loại nữa. Chính Nguyên-khí ấy trong mình của chúng ta đã
chuyển xuất ra vậy.
Bần-Đạo
cần thuyết cái thi-hài này lấy triết-lý chớ không phải lấy bí-truyền mà luận,
thì thi-hài chúng ta đã có nơi mặt địa-cầu này, do nơi nguyên-căn vật dục xuất
hiện ra, tức nhiên trong Thất tình nó đi đến cái tình chót hết là tình
quyết-định, tình duy chủ, cả mối tình kia thường phản-khắc nhau còn cái tình
Dục cốt-yếu duy-chủ định hướng của nó mà thôi.
Chúng
ta ngó thấy trong Vạn-Linh nó chia ra hai phần chơn hồn: Tiểu-Chơn-Hồn và
Đại-Chơn-Hồn. Tiểu-Chơn-Hồn chia ra làm ba thuyết, mà Tối-Tiểu là Vật-Chất-Hồn,
Thảo-Mộc-Hồn và Thú-Cầm-Hồn nó thuộc Tiểu-Hồn.
Nhơn-Hồn
thì có thứ Tiểu và có Đại tức-nhiên tình dục định phận nó, muốn Tiểu thì Tiểu,
muốn Đại thì Đại.
Đại-Hồn
là Thần, Thánh, Tiên, Phật bốn cái Đại-Hồn định Thiêng-Liêng vị cho cả
Vạn-Linh. Chúng ta ngó thấy trong mình chúng ta có Thần, có Thú; vì cớ cho nên
triết-lý Thất-Tình định duy-chủ, muốn làm Phật thì làm, muốn làm Thú thì làm,
bởi nó định theo tình dục của nó. Bây giờ trong thân thể của chúng ta, trong
nguyên-bổn của chúng ta, vẫn thường chiến đấu, Phật chiến đấu với thú, thú
chiến đấu với Phật.
Hai
hình-trạng của Đời và Đạo, Đạo xu-hướng theo Phật, Đời xu hướng theo Thú. Hai
tương-quan phản-khắc ngang nhau, vì cớ cho nên thuyết Duy-Tâm và Duy-Vật nó hay
tương-đối với nhau. Tình-dục duy-bổn thì thấy trong mình nếu chúng ta muốn
thành Phật thì chúng ta làm đặng, muốn đi theo Phật lập-vị mình thì trong
Đại-Hồn giúp ta làm đặng. Hay là tình dục ấy muốn đi theo đám Tiểu-Hồn, vì ảnh
hưởng trong cá nhân ta mà ảnh hưởng ấy chẳng phải của chúng ta mà thôi. ! Chúng
ta ngó thấy trong Vạn-Linh nó có hai con đường đi đặc biệt, không thế gì chối
cãi được, thành thử cái phản-khắc tương liên của Đời và Đạo nó đi từ trong
cá-nhân của chúng ta mà ra cho tới xã-hội nhơn-quần. Nhân-loại phản-khắc ấy
không thể gì tưởng được. Từ thử tới giờ lập-vị Phật như Đức-Phật Thích-Ca cũng
chưa giải quyết được; Đức-Chí-Tôn đến kỳ này chúng ta thử hỏi giải quyết hay
không? Cũng phải giải quyết chớ, Ổng đến vạch ra lẽ Phật với Thú ấy để chán
chường trước mắt. Con cái của Ổng, Ổng biểu lấy trí khôn-ngoan, lấy huệ khiếu
của mình làm môi giới, tùng theo Nguơn Linh làm căn-bản.
Định
Phật, muốn Phật, sẵn được Phật; muốn thú được thú, Ông chỉ hai con đường rõ rệt
để cho con cái của Ổng quyết-định cho mình. Sự tương-tranh tương-đấu bây giờ
trong các xã-hội nhơn-quần trong mặt địa-cầu này, đương nhiên bây giờ cũng tấn
tuồng ấy làm hình trạng của nó ra lớn vĩ-đại, chúng ta không để ý mà thôi. Muốn
tìm tàng chơn-lý thì rõ-rệt không có gì lạ lùng hết.
May
sao, giờ phút này nhơn-loại đương bị trong thảm cảnh khốn-khổ không biết chừng
nào; thảm cảnh ấy xô đến cảnh diệt vong của họ nữa mà chưa giải quyết được, vì
cả tinh thần bên Phật yếu ớt bên Thú đương tráng kiện, hùng hổ dữ tợn, mà bên
Phật thì yếu ớt quá. Đạo Phật truyền tại mặt địa-cầu này đương nhiên bây giờ vô
giá trị; mà hể Đạo hết quyền tức nhiên con vật kia không có kỷ cương muốn chạy
đâu thì chạy, muốn làm gì thì làm; muốn làm ngần nào thì đặng ngần ấy; nếu
không duy chủ đặng nó, tánh đức không mực thước, không chuẩn thằng, không biết
định phận mình thì sẽ xô đẩy đến cảnh diệt vong chớ không có gì lạ hết.
Bởi
vậy cho nên Đức-Chí-Tôn đến kêu gọi cả toàn nhơn-loại chỉ con đường diệt vong
trước mắt, khôn thì dừng bước lại để biết lấy phận mình đứng mực nào, rồi mình
mới phân định được. Bí-Pháp chơn-truyền Bần-Đạo thuyết không gì khác hơn là chỉ
đường, biết giá trị mỗi cá nhân, mình biết mình. Nếu vị Hoàng Tử con của Ông
Vua kia lên ngôi Cửu-ngũ trị vì thiên hạ mà không biết giá trị tương lai làm
Chúa thì tưởng lại họ như kẻ thường dân hèn-hạ, họ tập thành theo tánh đĩ thõa,
điếm-đàng buông lung, thì chẳng khi nào làm Vị Đế Vương xứng đáng đặng. Mình
phải biết địa vị mình thế nào, rồi mới thi-hành theo khuôn-luật định của mình,
Bí-Pháp chơn truyền là vậy.
Ngày
giờ nào cả con cái Đức-Chí-Tôn biết đoạt Pháp, biết mình, biết định phận cho
mình, biết ngôi vị của mình, biết giá trị của mình là giờ ấy trật tự an ninh
trong cửa Thiêng-Liêng Hằng-Sống Đức-Chí-Tôn để tại mặt thế này, tức nhiên
trong cửa Đạo đây mới thiệt giá trị.
Giờ
phút này ngó thấy tấn tuồng hỗn độn, con người họ tưởng Đạo Cao-Đài như Thầy
Chùa, Thầy Pháp, Bóng-Chàng, nói cái nào cũng được, vì cớ mới có Đảng-Phái dám
cả gan bày ra Tả-Đạo Bàn-Môn… Nếu biết đâu dám làm, vì họ lầm tướng diện của
họcho nên ngày nay mới có cái cảnh tương tàn đánh sát họ kia kìa,bằng đi tới
nữa thì không còn chơn tướng nào tồn-tại được.
Ấy
vậy, Bần-Đạo đã nói rõ, bây giờ có một điều trọng yếu không lẽ trong cái
Bí-Pháp chơn-truyền nói cho mấy người nghe mà thôi, mấy người được đặc ân gì mà
hưởng riêng như vậy.
Kể từ
đây đến sau, họa may Bần-Đạo có thuyết, là thuyết trong ngày Sóc-Vọng mà thôi,
hễ đi cúng nhiều thì nói, bằng không thì thôi. Còn nữa, nếu con cái Đức-Chí-Tôn
còn làm biếng đi cúng nữa thì vô nhà tịnh rồi sẽ hay chớ không thuyết nưã.
12. Đức Hộ Pháp
Thuyết Đạo Tại Đền
Thánh đêm 29 tháng 07 Năm Kỷ-Sửu
Đêm
hôm nay Bần-Đạo khởi giảng tiếp Bí-Pháp chơn-truyền của Đức-Chí-Tôn.
Trước
khi chúng ta muốn hiểu, cái huyền vi của Bí-Pháp ấy thì chúng ta phải tìm coi
con người của ta đây có chịu ảnh hưởng với Thể-Pháp ấy thế nào, và ta là gì
trước đã.
Ta là
gì ? Và có trọng hệ trong cơ-quan bí-mật, Tạo-Đoan Càn-Khôn Vũ-Trụ, và tạo hình
thể chúng ta có tại mặt thế này, nguyên do đâu sản-xuất ? Chúng ta đã ngó thấy
Đức-Chí-Tôn đến Ngài để trước mặt chúng ta một cái huyền-bí tạo Càn-Khôn
Vũ-Trụ.
Bần-Đạo
thuyết về " Tam-Bửu" tức nhiên là:
1/-
Thi-Hài
2/-
Chơn-Thần
3/-
Chơn- Linh.
Đức-Chí-Tôn
gọi chung là xác thân. Chơn-thần và chơn-linh, Bần-Đạo xin nói quả-quyết rằng:
không có một vật-loại nào trong Càn-Khôn Vũ-Trụ này mà không do quyền năng
vô-tận của Đức-Chí-Tôn sản-xuất. Cái nguyên do thế nào chúng ta đã ngó thấy;
vạn-vật trong Càn-khôn Vũ-Trụ này phải hoạt động mãi thôi không ngừng, nó nhờ
hoạt động chuyển luân mà tấn hóa mãi mãi.
Vạn-vật
trong Càn-Khôn Vũ-Trụ dù trái địa-cầu thấy trước mắt hay địa cầu chúng ta đương
cư ngụ đây, phải vận hành luôn; ngưng là chết mà cả vạn-vật loài người cũng
phải vậy. Nó có lưu động là nhờ khí nổ Thái-Cực buổi nọ, Thái-Cực nổ thành khối
lửa; khối lửa nổ trong Càn-Khôn Vũ-Trụ hiện ra muôn muôn triệu triệu ức quả
địa-cầu trong Càn-khôn Vũ-Trụ. Quả cầu ấy nguội lại thành địa-cầu chúng ta
đương ở đây, là quả địa-cầu 68. Quả cầu ấy là vậy.
Bần-Đạo
nói thật không có vật loại nào, chúng ta nam nữ cũng vậy, cũng đồng trong khối
chất ấy mà biến ra; Bần-Đạo đứng giữa tòa giảng này, nói tất cả đều chịu
ảnh-hưởng Thái-Cực đó định mà có. Ngày giờ chúng ta chết, chúng ta trở về Nguơn
khí vô cùng vô-biên ấy, cũng do nơi quyền-năng vận-chuyển của Thái Cực. Cái
Nguơn-Linh của chúng ta cũng do quyền năng Thái-Cực mà nó nắm cả Nguơn-linh tạo
nghiệp ấy trong Càn-Khôn Vũ-Trụ. Cả cơ-quan hữu-hình, nó tạo Bí-Pháp vô-biên là
chuyển luân trong Càn-Khôn Vũ-Trụ hoặc là chuyển luân hình thể, hoặc là chuyển
luân Ngươn khí, hay chuyển luân Bí-Pháp Thiêng-Liêng của Ngài.
Ấy
vậy, Bần-Đạo khởi giảng trong ba món bửu-bối chúng ta là gì? Thi-hài chúng ta
đồng mạng như sống theo vạn-vật hữu-hình là vật thú; thật sự nó vậy chớ không
gì khác hết; nếu chúng ta kiếm theo cái phương pháp " Cách vật Trí-tri
" chúng ta đã ngó thấy quả quyết rằng: con người chúng ta không có gì khác
hơn con Khỉ, con Chó, con Bò, con Trâu, thật sự nó vậy.
Duy có
một điều trọng hệ hơn hết là do nơi quyền năng Tạo-Đoan của Đức-Phật-Mẫu đã tạo
chơn-thần chúng ta và hình thể chúng ta, khi con người mới thai-bào. Con tinh
trùng (spermatozoaire) ở trong Nguơn khí Cha nhập vào lâm bồn của Me,ï kết hợp
với noản châu (ovule) của Mẹ; dương trùng của cha tạo biến thành hình hài xương
cốt chúng ta, còn noản châu của Mẹ chúng ta biến ra máu thịt của chúng ta đó
vậy; hai vật ấy phối hợp lại với nhau thành tượng biến hình hài.
Hai
cái tinh trùng và noản châu hiệp lại khác hẳn với cái hình tướng tinh-trùng
đơn-sơ, khi nhập vào làm một. Cái buổi tượng hình của chúng ta thì chơn-thần
của chúng ta còn ở ngoài thân, ngoài cốt hài của hài chúng ta; nó vơ-vẩn hoặc
là quanh theo bà Mẹ chúng ta ở dựa bên, nhứt là bà Mẹ đi nơi nào nó đều theo
nơi đó. Chơn-thần đến theo người Mẹ có chửa, nếu người Mẹ có Đạo-Đức dám chắc
đi đâu chưa có sự gì rủi ro đến đổi thiệt-hại, bởi cớ cho nên đứa con theo mãi,
theo cho đến khi tượng hình chúng ta ra khỏi lòng bà Mẹ, chơn-thần ấy mới nhập
vô ảnh-hài đó làm khuôn-viên cho ảnh-hài đó.
Tượng
hình khuôn-khổ chơn-thần Đức Phật-Mẫu đã tạo cho nó đi bực Tiểu-Hồi nó đi trong
thú chất không có chơn-thần nào tạo nhứt phẩm liên-hoa mình cho trọn vẹn.
Họ có
can-đảm dám đầu kiếp từ vật-loại đi lên, tạo đến Phật-Vị đặng tạo nhứt phẩm
liên-hoa. Phật-Mẫu tạo ra họ buộc họ phải quên cả kiếp trước, bỏ cái cũ nhập vô
cái mới đi từ Tiểu-Hồi Vật-hồi đến Nhơn-Loại. Chơn-Linh ấy biết làm người rồi
đó, làm cũng như khuôn-khổ chúng ta biết vậy. Ngộ-nghĩnh thay nếu chúng ta ngó
thấy tinh-thần chúng ta đầy-đủ Đạo-Đức chừng nào thì chơn-thần ảnh-hài càng
ngày càng đẹp càng tăng tiến.
Bởi
thế Tiên-Nho chúng ta có nói: rủi sanh chỗ bất phước: Tiên-Nho ta cho rằng:
kiếp tu không có dễ dàng, ít có người tu thiệt tâm-tu, nếu tinh-thần đầy đủ là
kiếp sanh mình tạo đầy đủ Đạo-Đức, mỗi kiếp tu của chúng ta mỹ-miều đẹp-đẽ lắm.
Hại
thay !!! Chúng ta đã ngó thấy trong nhà Phật, chúng ta quả quyết rằng: những
chơn-thần nào bị tội đọa xuống phong-đô trong Kim-Bồn Phật-Mẫu xuất hiện thế
nào mà bị đọa xuống cửa Địa-ngục rồi hại thay! Quả kiếp ấy Quỉ-quái thì thành
Quỉ-quái không thoát.
Cả
tinh thần ấy biến tướng do Nguơn-linh mà ra, vì Nguơn-linh không đủ quyền năng
tạo dựng. Tạo dựng Nguơn-linh ấy phát động thế nào, thì Nguơn-linh biến động ra
thế ấy. Loài người ở tới chừng nào đoạt-được Đạo nơi mặt đia-cầu này mới thôi.
Kể từ
ngày có nhơn-loại nơi mặt địa-cầu - này đến nay chừng một ngàn năm trăm triệu
năm nếu đoạt được phẩm vị, đó là nhơn-phẩm chớ không phải là giả-nhơn; chịu
trong phẩm giả-nhơn ít nữa một trăm triệu năm, xác thịt họ mới có phương thế dung-nạp
nguơn linh Đức-Chí-Tôn.
Chơn-Thần
Phật-Mẫu đến theo loài người từ buổi mới tạo ra loài người, còn Nguơn-Linh
Đức-Chí-Tôn đến loài người chừng năm chục triệu năm Nguơn linh có trong thân
thể của loài người. Đức-Chí-Tôn đến sau chớ không đến trước như Đức Phật-Mẫu.
Khi mẹ chúng ta sanh ta ra, nuôi gần năm sáu tuổi cũng chưa biết cha là gì;
chưa biết theo cha, nghe hiểu nhìn cha là gì; bảy, tám, chín, mười tuổi mới
biết. Buổi ban sơ loài người cũng thế đó.
Phật-Mẫu
sanh ra chỉ biết nuôi nấng theo bực Tiểu-Hồi, chớ Đại-Hồi chưa có. Ngày giờ có
Đại-Hồi là Đức-Chí-Tôn giáng linh trong thân-thể loài người.
Thánh-Giáo
Gia-Tô nói: hình-hài người là đất, Ngài nắn Ngài thổi ra mới biến người. Không
phải vậy đâu; nếu nói thân-thể con người thú chất là đúng, duy có Đức-Chí-Tôn
đến ở cùng nó mới là Thánh thôi.
Đức-Chí-Tôn
ở cùng nó thì là Đại-Hồi (Ego) chớ không phải Tiểu-Hồi (Monad).
Bây
giờ ta sống với cái Nguơn-linh mà cái Nguơn-linh xác thịt ấy là Phật và thú;
chơn-thần chúng ta làm trung-gian cho thi hài, làm trung gian cơ cũng như làm
thông ngôn cho Chơn-linh và xác thịt chúng ta vậy.
Bần-Đạo
lấy cái thí-dụ trắng như: cái máy bay, cánh đuôi và mình là xác thịt, cái
chong-chóng quây đi được đó là chơn-thần. Người cầm lái điều khiển cho vận hành
là cái linh-tánh định cái sống đặc biệt nó là Ngươn-linh.
Bần-Đạo
nói lại nữa: cái máy bay, mình, đuôi nó chẳng khác chi như xác chúng ta,
chong-chóng quây chạy đó là chơn-thần; người cầm máy làm cho máy bay vận hành
theo ý người muốn là Nguơn-linh đó vậy.
Muốn
hiểu Bí-Pháp Đức-Chí-Tôn thì xem cái xác thịt của chúng ta và chơn-thần của
chúng ta phải chịu ảnh-hưởng thế nào thì cái Bí-Pháp thế ấy. Linh-hồn trúng là
chơn-pháp, trật là giả-pháp.
Kỳ tới
Bần-Đạo kết vô Bí-Pháp Đức-Chí-Tôn.
đột � � k `� P�� ta phụng sự trong Thánh-Thể
Đức-Chí-Tôn tức nhiên phụng sự cho Ngài, tuổi già chớ tinh-thần không già,
không buổi nào chúng ta già hơn Đức-Chí-Tôn, nhỏ làm tôi mọi cho nhỏ, lớn làm
tôi mọi cho lớn, già làm tôi mọi cho già.
Không
buổi nào thấy cái già cái khổ cho chúng ta tức-nhiên giải-khổ rồi đó vậy.
Sanh,
Lão không phải khổ chúng ta, mà nó là một cơ-quan giúp cho đời được lịch duyệt.
Bịnh, Tử không phải khổ của chúng ta, mà nó là cơ-quan giúp ta đoạt
Thiêng-Liêng vị. Bịnh-Tử , bịnh chúng ta làm gì chúng ta bịnh, tại số chết của
chúng ta, tại khối sanh quang của ta hết lực mà thôi.
Kiếp
sanh này làm tôi cho người, dầu cho có bỏ xác hay chết là cùng. Mạng sống kiếp
sanh của mình do quyền Đức-Chí-Tôn định liệu, thì sợ gì cái chết; trái ngược
lại thiên hạ sợ chết là khổ mới chết, còn chúng ta không sợ chết vì chết là
cơ-quan giải-thoát đó vậy.
Giờ
phút này người tu là đem thân làm nô lệ cho nhơn-loại, rồi có vui sướng gì với
kiếp sanh mà cần sống, giá trị cái sống của ta khác hẳn hơn thiên hạ
tưởng-tượng, mà tưởng tượng cái chết của ta là buổi nghỉ-ngơi, buổi hết cực;
cái chết ấy chẳng phải do mình mà do nơi Đức-Chí-Tôn định là tới buổi
Đức-Chí-Tôn nói các con đã làm xong phận sự, Thầy cho con về.
Giờ
phút này chúng ta đương ở Đền-Thánh của Ngài đây, đương phụng sự cho Ngài đây,
thì cái sống chết của chúng ta không còn giá trị gì đối với chúng ta nữa, và
trong Tứ-Khổ không còn giá trị gì đối với chúng ta nữa: Ấy vậy, "
Tứ-diệu-đề" tức nhiên bài học, bài thi, của đề mục khổ duy có Đạo Cao-Đài
giải quyết nó, đánh mất nó, làm cho nó không còn giá trị chi nữa, tức-nhiên
chính mình và toàn cả con cái của Đức-Chí-Tôn hay tương lai tôi nữa cũng vậy.
Chúng
ta trọn hiến thân làm Thánh-Thể cho Ngài mà ta sống cho mình chớ không phải
sống cho Ngài là không đúng; sống không phải sống cho mình mà chính là sống cho
Ngài vì chính mình đem trọn cái sống ấy dưng nạp cho Ngài, mà tưởng tượng ta
khổ thì tức nhiên Đức-Chí-Tôn khổ còn gì. Ổng không có khổ, mà lại sống vinh
diệu quá, ta lại gặp thời kỳ này may duyên gặp được một cảnh sống lạ thường,
sống về Thánh-chất, sống về Thiêng-Liêng, sống về Càn-Khôn Vũ-Trụ, sống về Trời
Đất, sống dường ấy mà gọi là khổ sao đặng.
Ấy
vậy, Chơn-Pháp thuộc về Thể-Pháp của Thiên-Đạo Cao-Đài ngày nay có lẽ phù hợp
với tinh-thần nhơn-loại hơn các nền Tôn-Giáo khác; có lẽ, nhưng chúng ta đừng ỷ
mình.
Mỗi
ngày thường tự hỏi mình coi làm vừa sức của ta chưa? Làm vừa sức của Đức-Chí-Tôn
biểu mình làm hay chưa? Sống của mình có vừa với cái sống của Đức-Chí-Tôn hay
chưa? Nếu chúng ta đủ tinh-thần, đủ trí não và đủ năng lực để thay thế cái sống
của Đức-Chí-Tôn thì " Tứ-diệu-đề" của Đức Phật Thích-Ca để tại mặt
thế-gian này không có nghĩa-lý gì và giá trị gì đối với chúng ta hết.
Thể-Pháp
của Đạo Cao-Đài chủ về sống mà đánh tiêu cả sự khổ tức-nhiên đánh tiêu cả
Thể-Pháp. Thể-Pháp đánh tiêu được thì sẽ đánh tiêu Bí-Pháp được.
13. Đức Hộ Pháp
Thuyết
Đạo Tại Đền Thánh đêm 15 tháng 08 Năm Kỷ-Sửu, Lễ Hội-yến Diêu-Trì Kim-Mẫu.
Hôm
nay là ngày Lễ kỷ-niệm Bí-Pháp, Bí-Pháp Hội-Yến Diêu-Trì. Đức-Chí-Tôn đã lập
trong nền chơn-giáo của Ngài, Bần-Đạo thừa dịp nên thuyết minh cho toàn cả con
cái Đức-Chí-Tôn hiểu rõ cái huyền-vi bí-mật ấy, bởi có ảnh hưởng với cơ-quan
đoạt Đạo chúng ta tại mặt thế-gian này. Hơn nữa Bần-Đạo có phương-tiện tỏ ra
một đức-tin dị thường của một Đấng yêu-ái, một Đấng tạo Càn-khôn Vũ-Trụ, Đấng
Tự-Hữu Hằng-Hữu , Đấng quyền-năng Vô-tận vô-biên, cốt để cho con cái của Ngài
thấu đáo cái tâm tình của Ngài đối với ta và ta đối với Ngài dường nào.
Đoạt-đặng
đức-tin phi-thường ấy, năm Ất-Sửu tức-nhiên năm một ngàn chín trăm hai mươi lăm
(1925), Đức-Chí-Tôn đến với chúng ta, nhưng Ngài đến với một tình bạn mà thôi,
đến với một danh hiệu, giờ phút này Bần-Đạo không dám nói. Ngài đến cũng làm
bạn Thượng-Phẫm và Hộ-Pháp. Tháng 2 năm ấy Ngài dùng cơ bút huyền-diệu của
Ngài, Ngài dạy vọng Thiên-Bàn Cầu Đạo (điều mà chúng ta không thể tưởng tượng
đây là một cử chỉ ) ai cũng lấy làm lạ, nhiều người muốn tầm Đạo phải để một
dấu hỏi; hỏi tại sao buổi ấy Thượng-Phẩm và Hộ-Pháp có một đức-tin vững-vàng
nghe theo lời Ngài vọng Thiên-Bàn Cầu-Đạo. Điều mà chúng ta không thể
tưởng-tượng, đây là một cử-chỉ chung chớ không phải cá-nhân Thượng-Phẩm hay
Hộ-Pháp mà lời huấn-giáo của Ngài cốt-yếu để cho toàn thể nhân-loại nơi mặt
địa-cầu này nhứt hơn hết là nòi giốngViệt-Nam chúng ta.
Bần-Đạo
nói đây: Còn có Bà Nữ Chánh Phối Sư Hương-Hiếu là người bạn Cao-Thượng-Phẩm và
Bần-Đạo buổi ban sơ thấu hiểu điều ấy, Ngài đến với một tình cảm đáo để, một
đức-tin vững-vàng làm sao đâu? Không thể sợ đặng; không còn biết vị-kỷ nhục-nhã
chi hết; giữa khoảng đường nơi Châu Thành Sài-gòn thiên-hạ tấp-nập mà
Đức-Chí-Tôn buộc phải quỳ ngoài đường dựa bên lề ấy, quỳ đặng cầu-nguyện xin
Đạo cho chúng sanh, tội nghiệp thay!!! Ngài thử thách cho đến nước thoảng như
mình quỳ đó mà thiên hạ không hiểu mình quỳ làm gì thì cũng ít mắc cở chút mà
cũng có thể quỳ, còn làm mà người biết thì nhột-nhạt khó chịu lắm, nhưng sợ
Đức-Chí-Tôn phải rán mà làm.
Ngoài
ra có Ông bạn ai cũng đều biết danh của người là nhà thi sĩ danh tiếng; Bần-Đạo
dám chắc nội trong Nam-Bộ chúng ta đây chưa có ai bằng, nổi danh thi sĩ đứng
đầu hết thảy là người ấy, không biết chứng cớ gì mà người mê thi-phú của
Đức-Chí-Tôn quá chừng quá đổi, đến nước người thuộc lòng thi-phú của
Đức-Chí-Tôn rồi người họa lại với Đức Chí Tôn, người làm như mê-man vậy.
Bần-Đạo thì nhột-nhạt, duy có sợ mà vâng mạng lịnh thi-hành, quyền giáo-hóa của
Đức-Chí-Tôn, còn người " Thi sĩ Bồng-Dinh" họa theo đó mà ngâm,
thiên-hạ thấy tấn-tuồng dị-hộm tụ lại xem đông lắm. Trước để một cái bàn vọng
thiên cầu Đạo, ngay chính giữa coi bộ dị-hộm lắm, Bần-Đạo mới gát hai tay lên
cho đở mắc cỡ, vừa gát tay lên thì cái bàn quây gõ nói chuyện.
Các
Đấng Thiêng-Liêng đến không biết bao nhiêu, đến các Vị Giáo-Chủ cũng xuống
giảng dạy chúng ta và làm nhiều kiểu lạ lắm: cũng lúc này Đức-Chí-Tôn đã giáo
hóa khá lâu, các Đấng Thiêng-Liêng cũng đến cùng Thượng-Phẩm và Hộ-Pháp, tuy
mới mà đủ đầu óc có một đức-tin vững-vàng, đức tin ấy có thể nói rằng: tuy buổi
ban sơ mà dường như khối óc đã thâm hiểu nhiều rồi; nên Đức-Chí-Tôn mới ra lệnh
biểu làm một cái tiệc. Ngài dạy sắp đặt cái tiệc ấy để đãi Đấng vô hình; đãi 10
người: Đức Phật-Mẫu và Cửu-Vị Tiên-Nương. Phần hữu-hình có 3 người Thượng-Sanh,
Thượng-Phẩm và Hộ-Pháp. Sắp tiệc ấy do tay Bà Nữ Chánh-Phối-Sư Hương-Hiếu vâng
mạng lịnh tạo thành một tiệc, trên bàn thờ Phật-Mẫu, ở dưới sắp 9 cái ghế cũng
như có người ngồi vậy. Chén, đũa, muỗng, dĩa, bất kỳ cái gì cũng giống như đải
người hữu-hình vậy; duy có 3 người có xác thịt là Thượng-Sanh, Thượng-Phẩm,
Hộ-Pháp. Bần-Đạo mới hỏi tiệc này là tiệc gì? Ngài nói là Hội-yến Diêu-Trì,
Bần-Đạo nghe nói vậy thì hay vậy chớ không biết giá trị Hội-Yến là gì cả. Nghĩ
chắc cũng có ảnh-hưởng gì cần-yếu đến tương-lai của Đạo mà vâng lịnh thôi. Chớ
không hiểu nghĩa lý cho cùng cạn gì hết.
Ba
người sống đồng ngồi ăn, còn Bà Phối-Sư Hương-Hiếu gắp đồ ăn để vào chén cho 9
vị và trên bàn thờ cho Đức-Phật-Mẫu cũng như người sống kia vậy.
Bần-Đạo
còn nhớ một chuyện lạ-lùng, lúc đó lấy làm kỳ quái không hiểu gì hết, giờ biết
Đạo mới hiểu Đức-Chí-Tôn buổi nọ lấy một tên riêng đối với Bần-Đạo; bây giờ
Bần-Đạo không dám nói lại, Ngài đến làm bạn cùng Thượng-Phẩm và Hộ-Pháp.
Chừng
Hội-Yến Diêu-Trì rồi các Đấng Thiêng-Liêng và các Vị Giáo-Chủ ra từ giã (thăng)
kế Đức-Chí-Tôn đến nhập cơ. Thượng-Phẩm và Bần-Đạo tọc-mạch hỏi:
- Khi
nãy Diêu-Trì-Cung đến có Ngài đến ở đó không?
Đức-Chí-Tôn
trả lời:
- Có
chớ, ta ở đây từ khi ban-sơ đến giờ.
- Ngài
có thấy Diêu-Trì đến không ?
- Có
chớ, chính mình ta tiếp đãi !
Cao
Thượng-Phẩm hỏi:
-
Diêu-Trì-Cung ngó thấy Ngài không ?
-
Không ngó thấy.
Cao
Thượng-Phẩm hỏi:
- Sao
vậy ?
Ngài
trả lời:
-Ngài
dùng phép ẩn thân.
Bần-Đạo
tọc mạch hỏi tiếp:
- Như
đứa em của tôi là Thất-Nương Diêu-Trì có thể đoạt đặng chăng?
- Đoạt
đặng chớ !
Cao
Thượng-Phẩm hỏi:
- Phải
làm sao ?
Ngài
nói:
- Phải
tu, bằng không tu thì chẳng đoạt đặng.
Bần-Đạo
hỏi:
- Tu
chừng bao lâu mới đoạt đặng ?
Cái đó
Ngài làm thinh. Bần-Đạo hỏi một năm, năm năm, một ngàn năm, mười ngàn năm, một
trăm ngàn năm…, Ngài cũng làm thinh, rồi thôi không hơi sức nào hỏi nữa, không
biết chừng nào mới đoạt đặng, nghe vậy hay vậy. Các Vị Nữ Phái rán nhớ
Diêu-Trì-Cung, Bần-Đạo có giải nghĩa Hội-Yến Diêu-Trì là gì rồi đó.
Toàn
Thánh-Thể Đức-Chí-Tôn và con cái của Ngài rán để ý cho lắm: Từ khi Đạo bị bế
Ngọc-Hư-Cung bác Luật, Cực-Lạc Thế-Giái thì đóng cửa nên chúng sanh toàn cả Càn-Khôn
Vũ-Trụ có tu mà thành thì rất ít, bởi phương-pháp khó-khăn lắm, muốn đoạt Pháp
không phải dễ.
Cổ-Pháp
định cho các chơn-hồn về nơi Diêu-Trì-Cung hưởng được Hội-Yến Bàn-Đào tức nhiên
hưởng được Hội-Yến Diêu-Trì, ăn được quả Đào-Tiên, uống được Tiên-Tửu mới nhập
vô cảnh Thiêng-Liêng Hằng-Sống gọi là nhập tịch. Ôi thôi ! Từ thử đến giờ có ai
đặng hưởng, nếu có đặng hưởng cũng một phần rất ít.
Giờ
phút này Đức-Chí-Tôn quyết-định tận độ con cái của Ngài thay vì Bí-Pháp ấy độ
con cái của Ngài về nơi Kim-Bàn Phật-Mẫu đặng hưởng đặc ân Thiêng-Liêng của
Đức-Chí-Tôn.
Đức-Chí-Tôn
buộc Phật-Mẫu phải đến tại mặt thế gian này để Bí-Pháp Hội-Yến Diêu Trì tại cửa
Đạo này cho con cái của Ngài giải-thoát, ấy là một Bí-Pháp Thiêng-Liêng duy có
tay Ngài định pháp ấy mới đặng.
Hôm
nay là ngày Phật-Mẫu đem Bí-pháp đặng giải thoát chúng sanh, tận độ toàn
Vạn-linh sanh chúng; Ngài để tại mặt thế này trong cửa Đạo này mà thôi.
Hôm
nay ngày Lễ của Ngài mà cũng là ngày trọng hệ trong cửa Đạo; xin toàn cả con
cái của Ngài nhớ và để nơi tâm mình, bởi thế năm nào Bần-Đạo cũng để ý đến Lễ
của Ngài hơn hết; từ tạo thiên lập địa đến giờ chưa có ai hưởng được thời kỳ
này, Ngài đến tại mặt địa-cầu 68 này đặng tận-độ con cái của Ngài.
Chúng
ta phải chiêm-ngưỡng ơn vô-biên vô-tận của Ngài. Chúng ta phải chiêm-nghiệm Lễ
này để làm mật-niệm cám ơn Đức-Chí-Tôn và Phật-Mẫu ấy là Bí-Pháp của chúng ta
đó vậy.
ne-� !
h : `� P�� -family:
"Times New Roman";mso-fareast-font-family:"Times New Roman";color:black'>Giờ
phút này chúng ta đương ở Đền-Thánh của Ngài đây, đương phụng sự cho Ngài đây,
thì cái sống chết của chúng ta không còn giá trị gì đối với chúng ta nữa, và
trong Tứ-Khổ không còn giá trị gì đối với chúng ta nữa: Ấy vậy, "
Tứ-diệu-đề" tức nhiên bài học, bài thi, của đề mục khổ duy có Đạo Cao-Đài
giải quyết nó, đánh mất nó, làm cho nó không còn giá trị chi nữa, tức-nhiên
chính mình và toàn cả con cái của Đức-Chí-Tôn hay tương lai tôi nữa cũng vậy.
Chúng
ta trọn hiến thân làm Thánh-Thể cho Ngài mà ta sống cho mình chớ không phải
sống cho Ngài là không đúng; sống không phải sống cho mình mà chính là sống cho
Ngài vì chính mình đem trọn cái sống ấy dưng nạp cho Ngài, mà tưởng tượng ta
khổ thì tức nhiên Đức-Chí-Tôn khổ còn gì. Ổng không có khổ, mà lại sống vinh
diệu quá, ta lại gặp thời kỳ này may duyên gặp được một cảnh sống lạ thường,
sống về Thánh-chất, sống về Thiêng-Liêng, sống về Càn-Khôn Vũ-Trụ, sống về Trời
Đất, sống dường ấy mà gọi là khổ sao đặng.
Ấy
vậy, Chơn-Pháp thuộc về Thể-Pháp của Thiên-Đạo Cao-Đài ngày nay có lẽ phù hợp
với tinh-thần nhơn-loại hơn các nền Tôn-Giáo khác; có lẽ, nhưng chúng ta đừng ỷ
mình.
Mỗi
ngày thường tự hỏi mình coi làm vừa sức của ta chưa? Làm vừa sức của Đức-Chí-Tôn
biểu mình làm hay chưa? Sống của mình có vừa với cái sống của Đức-Chí-Tôn hay
chưa? Nếu chúng ta đủ tinh-thần, đủ trí não và đủ năng lực để thay thế cái sống
của Đức-Chí-Tôn thì " Tứ-diệu-đề" của Đức Phật Thích-Ca để tại mặt
thế-gian này không có nghĩa-lý gì và giá trị gì đối với chúng ta hết.
Thể-Pháp
của Đạo Cao-Đài chủ về sống mà đánh tiêu cả sự khổ tức-nhiên đánh tiêu cả
Thể-Pháp. Thể-Pháp đánh tiêu được thì sẽ đánh tiêu Bí-Pháp được.
14. Đức Hộ Pháp
Thuyết Đạo Tại Đền
Thánh đêm 1 tháng 09 Năm Kỷ-Sửu.
Bần-Đạo
hứa mỗi kỳ Sóc-Vọng thì thuyết Bí-Pháp. Hôm nay Bần-Đạo khởi thuyết về Bí-Pháp.
Có nhiều yếu tố Bần-Đạo phải minh bạch ra cho toàn con cái của Đức-Chí-Tôn hiểu
cái sơ-yếu của Bí-Pháp đối với ta và đối với Đức-Chí-Tôn.
Bần-Đạo
khởi giảng cho hiểu tại sao Đức-Chí-Tôn mở Tam-Kỳ Phổ-Độ gọi là mở Cơ-quan tận
độ chúng sanh? Đức-Chí-Tôn sai Hộ-Pháp giáng thế; tại sao Ngài không dùng cơ
bút để truyền Bí-Pháp cho con cái của Ngài; Ngài chỉ giáng bút truyền cho
Hộ-Pháp mà thôi. Vì cớ cho nên bạn của Bần-Đạo nơi Hiệp-Thiên-Đài có lắm người
thắc mắc về vụ đó. Không có lạ chi; mở cơ-quan tận độ chúng-sanh tức nhiên là
lập một khoa thi sang Tam Chuyển tái phục Thiêng-Liêng vị nơi cảnh vô hình; mỗi
chuyển tức nhiên mỗi khoa-mục của các Đẳng Chơn-hồn cần phải thi đặng đoạt vị:
Thăng hoặc Đọa.
Bởi cớ
cho nên Đức-Chí-Tôn gọi là trường thi công-quả là vậy. Đức-Chí-Tôn cho Hộ-Pháp
và Thập-Nhị Thời-Quân đến cốt yếu để mở cửa Bí-Pháp ấy đặng cho Vạn-Linh đoạt
vị. Cả thảy đều hiểu rằng Đức-Chí-Tôn buổi mới sơ khai chưa tạo thiên lập địa,
Ngài muốn cho Vạn-linh đặng hiệp cùng Nhứt-Linh của Ngài do quyền-năng sở-hữu
của quyền hạn Thần-Linh.
Ngài
vừa khởi trong mình quyết-định thi-hành điều ấy thì Ngài nắm cái Pháp. Trước
Ngài chỉ là Pháp, vì cớ cho nên ta để Phật tức nhiên là Ngài; kế thứ nhì là
Pháp hễ nắm Pháp rồi Ngài phán-đoán vạn-vật thành hình; Ngài muốn vạn-vật thành
hình tức nhiên Tăng, cả Vạn-Linh đều đứng trong Tăng. Ấy vậy, Pháp là chủ của
Vạn-Linh. Bởi do nơi Pháp, Vạn-Linh mới chủ tướng biến hình do nơi Pháp, mới
sản xuất Vạn-Linh; Cả huyền-vi hữu-hình Đức-Chí-Tôn tạo Đạo do nơi Pháp. Chúng
ta biết Pháp thuộc về hình-thể của Vạn-Linh, vì cớ cho nên Đạo-Giáo minh tỏa
rõ-rệt Tam Châu Bát-Bộ thuộc về quyền Hộ-Pháp. (Tam-Châu Bát-Bộ Hộ-Pháp
Thiên-Tôn).
Tại
sao gọi Tam-Châu Bát-Bộ là: Đông Thắng Thần-Châu, Tây-Ngưu Hóa-Châu, Nam Thiện
Bộ-Châu, đều thuộc quyền hạn của Hộ-Pháp, còn Bắc-cù Lưu-Châu để cho các phẩm
chơn hồn Quỷ vị nó định phận tại nơi đó, định nơi cư trú tại đó. Nó có một quyền
năng vô định chẳng cần chỉ giáo; để đặc biệt một Châu cho Quỷ vị ăn năn tu học
đặng đoạt vị; ba Bộ-Châu kia thuộc quyền hạn Hộ-Pháp giáo-hóa, duy có Bắc-Châu
Ngài không thường ngó tới lắm, để cho nó tự-do làm gì thì làm, khôn nhờ dại
chịu. Bát-Bộ là gì ? là nơi Bát Phẩm chơn-hồn chớ có chi đâu; Tám hồn là gì: là
Vật-Chất hồn, Thảo-Mộc hồn, Thú-Cầm hồn, Nhơn-hồn dĩ chí cho đến Thần, Thánh,
Tiên, Phật. Tám bộ ấy thuộc về quyền hạn Hộ-Pháp thiên vị nơi Đức-Chí-Tôn gọi
đến tạo cơ-quan tận độ chúng-sanh không còn ai khác hơn Hộ-Pháp, chính Hộ-Pháp
trách-nhiệm ấy.
Hạnh-phúc
thay cho nhơn-loại! Hạnh phúc thay cho Vạn-Linh! Đức-Chí-Tôn đã đem một hồng-ân
tối đại để nơi mặt địa-cầu 68 này. Tại sao Đức-Chí-Tôn giao cho Hộ-Pháp?
Bần-Đạo nói thật giờ phút nào Bí-Pháp duy-chủ quyền Đạo là giả tướng mà thôi,
không có chơn thật gì hết. Nếu chúng ta tu mà không đoạt Pháp được tức nhiên
chúng ta không giải thoát đặng, thì kiếp tu chúng ta không hữu-ích chi hết.
Hộ-Pháp
đến cốt yếu đem Bát-Phẩm chơn-hồn Thăng vị: nhiều hoặc ít, có thể một đẳng cấp
từ Vật-Chất Hộ-Pháp đem lên Thảo-Mộc, Thảo-mộc đem lên Thú-Cầm, Thú cầm đem lên
Nhơn-loại dĩ chí Phật vị, Hộ-Pháp có thể chỉ định cho họ đặng. Bởi trong quyền
ấy Đức-Chí-Tôn nói trọng quyền thì trọng phạt. Quyền hành nắm chẳng phải nơi
mặt thế gian này mà thôi, Hộ-Pháp và Thập-Nhị Thời-Quân, không phải quyền tại
thế gian này, quyền nơi cửa Đạo Cao-Đài này, cũng không phải tại đây nữa.
Bần-Đạo nói đây là quyền Đạo Cao-Đài cả Thiêng-Liêng Hằng Sống.
Cao-Đài
Đại-Đạo cảnh vô hình kia y như lời Tiên-tri của Công-Giáo tức nhiên
Thiên-Chúa-Giáo nói: Trên nước Thiêng-Liêng Hằng Sống kia Đức-Chí-Tôn gần đến
và đã đến, đến thời buổi này; ấy vậy, bây giờ chúng ta tìm coi cái tương-liên
chúng ta đối với Đức-Chí-Tôn, Đức-Chí-Tôn biểu chúng ta làm gì, và chúng ta đã
làm gì?
Đức-Chí-Tôn
muốn ta làm Thi-Hài Hữu-Hình của Ngài, tức-nhiên Ngài đến lập Thánh-Thể của
Ngài là Hội-Thánh. Hội-Thánh của Ngài để thay hình ảnh cho Ngài. Muốn thay hình
ảnh cho Ngài thì phải đổi cho Ngài cái gì? Ông đem cơ giải thoát, đem phẩm vị
Thiêng-Liêng cho chúng ta, đem tận nơi tay cho chúng ta đặng chúng ta định vị;
rồi Oång đòi chúng ta đổi chọn cái gì? Ổng đòi chúng ta đem đổi ba món Báu là
" Tam-Bửu" là Tinh, Khí, Thần. Cái liên-quan mật thiết Tinh, Khí,
Thần là gì ? Đối với thi-hài chúng ta nó bảo-trọng thế nào mà Đức-Chí-Tôn đòi
đó mà thôi ? Nếu không có nó chẳng hề khi nào Đức-Chí-Tôn tạo thành Thánh-Thể
của Ngài đặng. Ngài lấy ba cái vật tỷ như: ba món báu trong mình chúng ta; Hoa,
Ngài tỷ như thân-thể chúng ta; Rượu, Ngài tỷ như trí-thức tinh-thần khôn-ngoan
của chúng ta; Trà, Ngài tỷ như linh-hồn của chúng ta, mà thật ra trong mình của
chúng ta có ba món ấy là báu mà thôi.
Ngộ-nghĩnh
thay chúng ta nên để ý điều này. Đức-Chí-Tôn biểu chúng ta mỗi ngày phải dâng
ba món ấy: ba món trọng hệ hơn hết là Tinh, Khí, Thần. Thường ngày chúng ta chỉ
lấy Khí, Thần dâng mà thôi, còn Tinh thì Tiểu-Đàn hay Đại-Đàn mới có. Ngài chán
biết thi-hài của chúng ta chẳng phải chúng ta làm chủ nếu đòi quả-quyết nó thì
nó đi đặng phụng-sự cho Vạn-Linh thì không có làm gì được, nên Oång không buộc
mà để cho nó có quyền tự-do định-phận của nó. Nội bao nhiêu đó chúng ta cũng
ngó thấy cái lòng Đại-Từ Đại-Bi của Ngài đến thế nào. Thể-chất kia mà Ngài
không ràng buộc không ép bức để cho nó định phận, tưởng coi ai có nhân từ đến
mức đó không ?.
Kỳ tới
Bần-Đạo sẽ giảng tiếp về trí-não và tâm-hồn như thế nào.
15. Đức Hộ Pháp
Thuyết
Đạo Tại Đền Thánh đêm 30 tháng 10 Năm Kỷ-Sửu
Hôm
nay Bần-Đạo đình thuyết Bí-Pháp; cái nguyên do như thế nào Bần-Đạo xin biện ra.
Vả chăng chúng ta ở trong hoàn-cảnh náo nhiệt, vì hai thuyết Duy-Tâm và Duy-Vật
đương chiến-đấu với nhau. Chúng ta dầu Chức-Sắc Thiên-Phong hay là mấy em Nam
Nữ Lưỡng-Phái cũng thế. Là một phần tử trong Thánh-Thể Đức-Chí-Tôn, Ngài đã tạo
tinh-thần cho chúng ta vì sự thương yêu của Ngài nên Ngài lập Thiên-vị tại mặt
thế này cho con cái thương yêu của Ngài. Ngài biểu chúng ta ký hòa-ước với Ngài
để thay thế hình ảnh cho Ngài, đem hết tinh thần từ-bi công chánh của Ngài đối
đãi với Vạn-Linh tức nhiên chúng ta phải thay thế hình-ảnh cho Ngài, dung hòa
Vạn-Linh hiệp với Chí-Linh, tức nhiên Ngài cho chúng ta cái sứ-mạng để dung-hòa
Đời với Đạo.
Cái lý
thuyết Duy-Vật, là cái lý thuyết sống của Đời, còn cái lý-thuyết Duy-Tâm phải
chăng là cái sống của Đạo. Đáng lý ra chúng ta phải tùng bên mặt Duy-Tâm thì
phải? Bởi chính mình chúng ta có sứ mạng thay-thế duy-chủ của Duy-Tâm tức nhiên
chúng ta phải ngã bên mé Duy-tâm hơn hết. Vì đã có ký hòa ước với Đấng Chí-Linh
kia giữ công-chánh đặng dung hòa tinh-thần Đời và Đạo, vì mức sống ấy chúng ta
không nên nghiêng đổ đó vậy.
Chúng
ta tìm-tàng, chúng ta định ngược lại là có cái lý do này Đạo Cao-Đài không cần
dùng mê-tín dị-đoan làm cho sự tín-ngưỡng được mạnh-mẽ của nó, không cần!!!
Trái ngược lụng lại đem hết triết-lý chơn thật để tại mặt thế này mà thôi. Bởi
vì dối-trá dầu cho Đạo hay Đời, trường dối-trá ấy đã làm cho cơ thể Tạo-Đoan
nghiêng-ngửa; chúng ta không cần xu-hướng theo cái dối trá thường tình nữa,
chúng ta phải tiêu-diệt cái sự dối trá. Lại nữa, trong hoàn-cảnh chúng ta đương
làm trung-gian dung-hòa cho Đạo và Đời chúng ta chẳng nên mượn thế-lực mê-tín
dị-đoan để làm khiếp phục, đặng quyết thắng tà quyền đương làm tinh-thần loài
người điên-đảo. Một trường ngôn luận xì-xào đã kiếm thế hèn tiện của thiên-hạ
đặng tính tạo thành một phản động lực đặng làm mất giá trị một nền Tôn-Giáo của
Đức-Chí-Tôn.
Bần-Đạo
nói thật muốn đánh tiêu cả sự dối-trá gian-ngược ấy chẳng phải dễ. Người có thể
làm cho thiên hạ mê tín dị-đoan được là Bần-Đạo mà Bần-Đạo không làm, bởi vì
Bần-Đạo coi sự làm ấy hèn tiện và vô Đạo-Đức. Bần-Đạo chỉ lấy một cái triết lý
chơn thật của Đức-Chí-Tôn để giáo Đạo cho con cái của Ngài mà thôi. Bần-Đạo duy
muốn làm bạn với con cái của Ngài, nên phẩm vị Phật sống của Đức-Chí-Tôn để cho
Bần-Đạo mà Bần-Đạo chưa có ngồi. Aáy vậy, mê-tín dị-đoan trong cửa Đạo Cao-Đài
không có và không cần có, quả quyết hẳn vậy, nên đình lại, đình Bí-Pháp
Chơn-truyền nếu thuyết ra là lấy cái quyền-năng mê-tín dị-đoan mà thắng thiên
hạ là một điều hèn nhát nên Bần-Đạo không dùng. Bần-Đạo hứa chắc sẽ giáo hóa
cho con cái của Đức-Chí-Tôn mà thôi.
Bây
giờ Bần-Đạo xin thuyết ý-vị và cái nghĩa lý sống của con người; vả chăng chúng
đến với một phần xác ở tại thế này, chúng ta phải biết cái sống của nó ý vị gì
? Đã sanh đứng làm người tại mặt thế này, chúng ta nên tìm hiểu cho thấu đáo
cái ý vị cái sống ấy và nghĩa lý của nó có thế nào trước cái đã. Vì thế mà từ
Thượng-cổ đến giờ tinh-thần loài người vẫn đeo đuổi mãi mà thôi, vì cớ cho nên
tượng trưng các hình-tượng, các nền Đạo, các Tôn-Giáo.
Chúng
ta quan-sát cả triết lý cái sống phải có lý do nào ? Sống đương nhiên của chúng
ta có hai sống:
1/-
Sống về vật-chất mà nói rõ ra là sống về phương-pháp thú chất.
2/-
Sống về tinh-thần tức-nhiên sống về cái phương-pháp hiển-háchanh-linh của nó.
Chúng
ta thấy hai cái quyền-năng ấy nó tương tranh với nhau mãi mãi mà thôi, vì cớ
cho nên mới nảy sanh ra hai thuyết: Duy-Tâm và Duy-Vật. Chúng ta thử giở
lịch-sử của loài người thì chúng ta biết loài người như đã nói cái thuyết kia
là phải " Connais toi, toi même" nghĩa là người biết người hơn hết.
Mình biết mình đặng chi? Đặng tìm tàng cho thấu đáo cái nghĩa-lý sống của mình.
Chúng
ta ngó thấy Thượng-Cổ, bực cổ-nhân là hàng vĩ-nhân, dân Âu-châu thì có
"Socrate" cũng do thời đại nhơn-sanh đó, chính Ngài lấy thuyết Đấng
Chí-Linh trong Càn-Khôn Vũ-Trụ cái thuyết làm cho các phản động-lực coi Ngài
như kẻ thù-nghịch, đến nước cái quyền năng buổi nọ mạnh-mẽ thế nào tử-hình Ngài
cho Ngài lấy chén thuốc độc mà tự-tử. Khi giam Ngài trong ngục Ngài có
phương-thế hội-đàm với các nhà triết-học. Tới giờ chót chúng đem chén thuốc-độc
đưa trong tay của Ngài biểu Ngài uống; Ngài bưng chén thuốc-độc ấy để từ giả
các bạn của Ngài mà Ngài nói như nói chơi vậy. Ngài nói tôi biết rằng: Ngoài
cơ-thể Tạo-Đoan này của Đời này, nó còn các cơ-quan vô-hình tối-trọng kia, tôi
quả-quyết rằng có, thì cái chết ta mong lắm chớ !!! Giờ phút ta cầm chén
"Suré" này ta uống, thì ta sẽ được hội hiệp với các vị hiền-triết,
được làm bạn với họ thì có gì hơn. Nói rồi Ngài bưng chén "Suré" Ngài
uống.
Giờ
chết của Ngài, giờ ngặc mình của Ngài, thì môn-đệ của Ngài hỏi: "Ngài chết
đây rồi Ngài sẽ đi đâu hay sẽ làm gì? Ngài cười nói: ta chưa biết ta sẽ làm
Chúa cả cơ-thể Tạo-Đoan này để điều-đình cả cơ-quan vĩ-đại của Càn-Khôn Vũ-Trụ
hay ta sẽ làm chân của con châu-chấu? Dầu thế nào cũng có Đấng cầm mực thước
định cho ta làm cái gì thì ta làm cái nấy. Cái chết đối với Ngài không có nghĩa
lý gì hết.
Đức
Lão-Tử khi đoạt được bí-mật của Bát-Quái-Đồ rồi Ngài từ giả nhà Châu, Ngài về
Côn-Lôn-Sơn mà an nghỉ. Môn-đệ của Ngài hỏi: Ngài về Côn-Lôn-Sơn để làm gì? Có
hạnh-phúc hay không? Ngài trả lời duy có cái biết cuả ta mà đã làm cho ta có
thú vị sống đặc-biệt, không cần nói rõ hạnh-phúc ấy ra thế nào, nhưng ta chỉ
nói rằng: cái biết cuả ta nó làm cho ta hưởng thú-vị an vui của cái sống ấy.
Đức
Khổng-Phu-Tữ từ giả quan-trường về giáo-đạo dạy các môn-đệ của Ngài; thiên-hạ
gọi là vô-phước mà cảnh thiệt vô-phước của Ngài là lúc Ngài làm quan cho nhà
Châu, làm quan cho nước Tề, nước Yên và lúc châu-lưu trong Lục-Quốc.
Bây
giờ sống với Thất-Thập Nhị-Hiền, Tam-Thiên Đồ-Đệ của Ngài, là Ngài hạnh-phúc
hơn hết, vì Ngài biết cái thú vị cái sống của Ngài thế nào; cái sống của Ngài
vui về Đạo mà thôi. Giờ trái ngược lụng lại sống, chúng ta ngó thấy trước kia
sống của Tần-Thủy-Hoàng, sống của Sở-Bá-Vương hai tay trắng lập nên nghiệp đế
đè nén cả tinh-thần dân chúng buổi nọ, vị chúa của họ sanh-sát tàn ác không có
điều gì mà họ không làm, quyền hành của họ tàn ác lắm.
Cái
sống của Tần-Thủy-Hoàng thế nào, dòm lụng lại cái chết rồi Ngài than: Các tài
tình thâu nghiệp để ta thắng được duy có cái chết ta thắng không được. Vì thế
mới cho người đi kiếm thuốc trường-sanh bất-tử, mê-tín đến nước người ta cho ăn
" dương khí ngựa " (nước dái con ngựa) mà cũng ăn nữa, ăn đặng sống
mà anh ta cũng chết.
Nã-Phá-Luân
đã được cơ-hội làm nên nghiệp-đế, hồi buổi đó làm cho toàn cõi Âu-Châu các nước
chư-hầu đều cúi đầu hết thảy, đến chừng chết, chết trong ngục Ile de Saint
Hélène.
Ông
Vua giàu có sang trọng hơn hết là Louis XIV (Louis 14) thiên hạ thế-kỷ đó cho
là Ông Vua Trời (Le Roi Soleil) cả thiên-hạ đều tùng-phục kính-trọng, kiêng-nể.
Âu-Châu buổi nọ có thể nói Ngài là một vị bá-chủ của thiên-hạ không có cái gì
mà anh ta không có "Tứ-Hải Phú-Hữu" sang trọng vô-biên có một điều là
đền Vua của Ngài "Palais Louis 14" quân lính canh tuần bảy vòng mà
ngăn cấm cái chết vô trong hoàng gia của Ngài không đặng; chết cả con cháu của
Ngài cho đến nỗi gần hết trong hoàng-gia, rốt chuyện Ngài truyền Ngôi báu lại
cho đứa cháu nội mà thôi.
Ngài
than: Hại thay ! hoàng thành của ta mấy vòng canh nghiêm nhặc mà nó không cản
được cái chết đến nhà ta.
Chức-vị
sang trọng của mình sống như con cọp vậy, bắt được thịt ăn cho đã rồi nằm ỳ ra
đó ngủ mà chúng cũng kiên cũng sợ nhưng chúng chưa biết thương; sống như con cá
Ông không ai thấy mà chiếc ghe nào chìm thì có người ta đỡ. Cái sống con cọp
không có ai thờ, còn cái sống của con cá Ông có người ta thờ.
Hai
cái sống đặc biệt ấy là cái sống Duy-Vật và cái sống Duy-Tâm. Bần-Đạo tả ra cho
con cái của Ngài lấy đó mà suy gẫm./.
Hết