Có Một Tình Yêu
Tác Giả : Khai Tâm QUÁCH MINH CHƯƠNG
C
|
ó một dòng suối chảy ra
biển cả mang theo một tình yêu, một tình người, tình nhân loại bất tận. Dòng
suối ấy róc rách chảy êm đềm theo nhịp đập con tim mà tạo hoá chí công mặc
khải, đã nhỏ những giọt nước cam lồ yêu thương ươm mầm sống giúp phục sinh
những Chủng Tử Bồ Đề tưởng chừng khô héo chết giữa dòng đời khắc nghiệt.
Vâng! Đó là hai bông hoa ông Cao Văn Biển và bà Phan Thị Hồng Phượng. Hai bông hoa kết thành một dòng suối yêu thương chan chứa lung linh, đượm thánh chất cội nguồn dân tộc, đượm một tấm lòng quảng đại, mênh
mông như dòng sữa mẹ ngọt ngào nuôi lớn đời con, đượm tấm lòng hy sinh xả thân
quên mình vì người, vì sự sống và vì nước mắt của những người xa lạ.
Ông Bà nghe theo tiếng gọi của con tim mà làm, mà thi ơn bố hoá, mà đem nước
tưới những bông hoa rũ rượi dần chết. Ông Bà được người đạo Cao Đài kính quý và
thường gọi là “Ông Tư, Bà Tư”. Ông Bà đã có con và nuôi lớn trưởng thành, lập
gia thất an ổn. Tình cha, Tình mẹ đã ôm ấp che chở đủ để đàn con khôn ấm trưởng
thành, ấy thế mà tình người không dừng ở nơi ấy, mỗi khi đi làm công quả và gặp những người bị bệnh tâm thần, những
người vô gia cư không cơm, không áo quần lang thang, rách rưới nơi đầu đường xó
chợ thì hai Ông Bà cố nén dòng nước mắt thương tâm. Nhưng rồi, bông hoa
cũng nở, những giọt nước mắt cứ hiển nhiên chảy dài trên má Ông Bà. Vì sao? Có phải
vì hai bông hoa ấy là hai bông hoa tượng trưng cho Từ Bi, cho Bác Ái mà đấng Cao
Đài Chí Tôn đã dạy chăng? Và rồi những giọt nước mắt ấy cứ tuông và tuông,
tuông mãi ra biển cả mênh mông như được hoà về đại dương rộng lớn khôn cùng.
hình ảnh vợ chồng ông tư
Ông Bà đã thao thức,
trăn trở và luôn chiêm nghiệm lời thánh huấn của Đức Chí Tôn “sự thương yêu là chìa khoá mở cửa Bát Quái
Đài”. Không phải là màu sắc của sự thương yêu, chẳng phải vì danh vọng,
chẳng vì lời khen mà là vì tấm lòng cao khiết, tận hiếu với hai đấng chí linh Đức
Chí Tôn và Đức Phật Mẫu, hai Ông Bà đi trong sự dìu dắt của hai đấng siêu hình
mà dang đôi tay gầy guột ôm “đàn chiên”
về chuồng, bảo bọc đỡ lấy khổ sầu của bao kiếp người đau thương khổ
xót.
Có câu “xả phú cầu bần, xả thân cầu đạo” mấy ai làm được. Buông bỏ như tứ
đại giai không, xa lìa vật chất tìm về cái bần hàn mà đi trong tình
yêu đạo pháp. Cầu đạo ở đây không phải chỉ ở việc bận áo dài, quỳ lạy
trời phật tiên thánh thần mà “cầu đạo” ở đây phải là tất cả, cầu đạo phải thực
hiện một tình yêu không biên giới cao khiết thanh minh trong xanh như vầng nhựt
nguyệt làu làu chiếu soi vạn nẻo. Tình yêu ấy là tình yêu đạo pháp rạng ngời
tinh tuý của nguyên lý tạo lập càn khôn vũ trụ vì có câu “Thầy là cha của sự thương yêu”. Chính tại điểm ấy mà hai Ông Bà từ
bỏ tất cả của cải thế gian. Đất thì chia từng khoảnh cho bà con láng giềng dòng
tộc, thậm chí ai nghèo thiếu Ông Bà đều cho luôn, cho tất cả đến cả những vật
dụng cần thiết nhất để rồi hai Ông Bà còn lại hai bàn tay trắng và ở đậu người ta, Ông Bà chỉ biết công quả và công quả hầu thực
hiện đúng phương châm giác thế của cánh cửa Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ đó là “tam
lập”: lập công, lập đức, lập ngôn hay công phu, công quả, công trình.
Một Buổi ăn chiều của người bệnh tâm thần
Ngỡ rằng trắng là hết,
nhưng không! Hai Ông Bà còn lại hai trái tim sắt thép và ngọt mịn. Đến nỗi, chỉ
còn hai tấm thân cơ hàn ngày đi làm công quả với tứ thời nhật tụng, đêm về lại ôm nỗi nhớ,
mang niềm thương đối với những người bạc phận lang thang cơ nhở. Hai trái tim
sắt thép ấy đã rung chuông, sưởi ấm cho đời. Và thế là hai Ông Bà đã đem về nhà
tạm bợ mà chăm sóc từng miếng ăn, giấc ngủ, từ cái áo, cái quần cho những người
như tượng gỗ nhưng hung tợn táo bạo. Bàn tay trắng, trái tim mịn nhưng quả thật
sắt thép. Sắt thép để bảo bọc cưu mang, nuôi nấng thể hiện tình người mềm dịu
đáng kính làm sao! Chỉ có sắt thép như thế mới đủ đối diện với cái khốn khó,
cực hàn vô thế mới làm được vì họ là những người bệnh tâm thần nhiều năm, có
người vài mươi năm. Họ chỉ biết cười, biết hung dữ, biết tiểu và đại tiện tự
do. Và vì tình yêu dịu ngọt nhất mang tính người nhất đem lại hạnh phúc cho
những người bệnh, cho người thân, cho xã hội. Họ được ba bữa cơm trường chay, được bộ áo bà ba trắng tươm tất, được
cúng kiếng Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu, được chăm sóc sức khoẻ, được sưởi âm
trong hơi ấm một ông cha, một bà mẹ thánh thiện. Quả thật chỉ có trái tim
sắt thép hoà với cái tính nhũn mềm mới làm được như hai Ông Bà Tư. Một sự
ngưỡng vọng kính mến đầy lòng thán phục đối với những ai chứng kiến cái hành
trình nuôi nấng, chăm sóc “con cái”
của ông Tư, bà Tư.
Những người bệnh thì hung bạo như vô tri, vô giác, hành xử không biết
gì, có thể đánh chém bất cứ ai không kể người thân kẻ lạ, có những người vì quá
nặng bị gông xiềng ghớm ghiết, có những người không phương thuốc chữa từ những
bệnh viện tâm thần trong khi Ông Bà Tư thì chất phát đôn hậu, đôi mắt ánh lên
tình yêu ngọt ngào. Ông Bà Tư chỉ có hai bàn tay trắng, không nói nhiều nhưng
hành cái tình đạo pháp một cách đúng đắn như khuôn thước định vị mà tôn giáo Cao
Đài đã khởi sướng một chủ nghĩa tối cao, tối trọng vinh danh sự hiện hữu của
đấng chí linh bảo tồn sự sống cho nhơn loại. Và Ông Bà Tư đã làm như thế, vinh
danh sự hiện diện của đấng chí tôn cứu sinh cho bao kiếp người để tô vẽ nét
đời, vun cội Đại Đạo cho nhuần thấm sum suê tính bác ái hiện sinh. Với những
phương thức điều trị tại các bệnh viện tâm thần mà bệnh nhân không thuyên giảm,
bệnh lại càng nặng thêm, triền miên năm này qua năm nọ, thân nhân túng nghèo,
vô phương giải khổ. Ông Bà Tư chỉ với đôi bàn tay , và đôi mắt yêu thương, cảm
thông nỗi khổ vô hạn của người bệnh. Người bệnh từ điên thành bình thường và
nhiều trường hợp hoàn toàn bình phục trở về với gia đình trong niềm hạnh phúc
tột bực, có người thì do bệnh quá lâu nên quá trình khôi phục lại chậm hơn, mất
thời gian hơn. Nhưng đối diện với sự cưu mang của Ông Bà Tư, cùng những biểu
hiện bình phục ngày qua ngày của chính con mình, những người thân kia phải rơi
lệ. người ta đặt một câu hỏi rằng vì sao Ông Bà Tư lại trị hết bệnh trong khi
bệnh viện thì trả về? Cách thức nuôi nấng và chữa trị của Ông Bà Tư chỉ vọn vẹn
là ăn chay trường và cúng tứ thời theo như Tân Pháp Cao
Đài Đại Đạo ân xá kỳ ba. Phải chăng
vì tình yêu mà hoá giải những căn bệnh hiểm nghèo, mà cảm hoá những tâm hồn khô lạnh chết héo bao nhiêu năm? Phải chăng vì tình yêu Đại Đạo đã hoá biến từ ác sang lành? Câu
trả lời đích thực để cho người đọc tự suy ngẫm.
Và rồi tình yêu ban rãi
khắp nơi như chan chứa hạnh phúc cho bao gia đình có con nay đã khỏi cơn bệnh
tưởng chừng thần chết đã rước đứa con yêu quý của họ. Tiếng lành đồn xa cùng
với tình yêu vô hạn của ông Tư, bà Tư, số bệnh nhân nhờ cứu giúp vô cùng lớn,
lên đến con số 70, 80 người. có những người cha, người mẹ vì nhà nghèo mà con
lại bệnh như thế vô cách chữa trị đành đến nhờ Ông Bà Tư chữa trị, họ chở đến
rồi trốn mất. Thế là Ông Bà cũng vẫn vui vẻ chăm lo điều trị nuôi nấng. Với số
lượng người quá nhiều, Ông Bà Tư đành nhờ tạm tại Thiên Phong Đường mà tiếp tục
dang tay bao dung, ban vui, cứu khổ. Lần hồi sự bình phục nhanh chóng theo thời
gian, rồi hết lớp bệnh này đến lớp khác thay phiên nhau. Ông Bà Tư chỉ có hai
bàn tay trắng mà chế ngự được cái thần chết hung tợn. Cùng với Ông Bà Tư là những mạnh thường quân, người một ít tiền,
người một ít cơm, rau cháo. Cứ thế cơm rau, cháo đạm chay lạt qua ngày mà bịnh ngày khôi phục không
ngờ.
Có ngờ đâu, một “bệnh viện” bị giải thể vì nhiều lý
do. có phải chăng vì Ông Bà Tư thương tha nhân nhiêu quá nên bị cấm đoán? Người
ta đặt câu hỏi nhưng cũng không biết câu trả lời. Ông Bà Tư cất một căn nhà
rộng để nuôi bệnh nhờ vào những tấm lòng hảo tâm, thi ân , bố đức của những tín
hữu Cao Đài thấm nhuần chơn lý đạo pháp. Đất mua, nhà cất xong khang khang
nhưng vẫn không được nuôi bệnh. Một yêu cầu mới là nhà phải được xây cất đúng
mô hình với diện tích và cơ cấu nuôi dưỡng đúng theo tiêu chí của một cơ quan
nuôi dưỡng.
Thế rồi, những người bệnh trả về thân nhân
với “sự tự do” đó là đi lang thang ngoài đường, gặp ai đánh đó gây hiểm nguy
cho bao nhiêu người khác xung quanh. Ông Bà Tư thì đành nhớ về quá khứ mà nước
mắt cứ tuông rơi theo từng bước chân của người bệnh. Ánh mắt Ông Bà Tư làm
người viết cũng rung cảm hoà cùng trái tim nhân ái yêu người khôn xiết của Ông
Bà Tư.
Ông Bà Tư đã làm được một việc mà ít ai có
thể làm được, thương người mà ít có ai có thể thương được. Chính cái ấy làm
giảm gánh nặng cho xã hội. Thiết nghĩ rằng, các cơ quan chức năng tạo điều kiện
thuận lợi cho Ông Bà Tư có thể làm những việc mà người ta không thể làm. Người viết
xin nguyện cầu các bậc mạnh thường quân dang tay rũ lòng cứu lấy sự sống đang
dần rụi trước nghịch cảnh của kiếp người trong việc xây dựng một ngôi nhà cho
người bệnh.
Và dòng sông kia sẽ vẫn chảy mãi không
ngừng, lăn trôi theo biến duyên của định luật trời đất. Hai bông hoa kia sẽ
luôn hé nở để ôm chặt vào lòng những gương mặt bịnh tâm thần trong Tứ Thời Nhật
Tụng bằng lời thánh nguyện: “Cầu Đức Chí Tôn, Đức Phật Mẫu và Thần, Thánh, Tiên, Phật mười phương hoá giải nghiệp căn của
họ, để họ phản tỉnh tu tâm dưỡng tánh để hườn nguyên phản bổn”.
Hai bông hoa kia sẽ mãi nở cùng mùa xuân
đạo đức, một mùa xuân của Đại Đạo với biết bao nhiêu bông hoa nhân ái tạo dựng
thành nhành sông chảy về đại dương đúng như chánh thể của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ,
đó là “tận độ” và “cứu sinh”.
Kỷ niệm Lễ Hội Yến Diêu Trì Cung 2012
Khai Tâm Quách Minh Chương
1 nhận xét:
Ông Tư và Bà Tư thật đáng để cho người khác noi theo!
Đăng nhận xét