Thứ Tư, 28 tháng 3, 2012

Những Bài Thi Tặng Đức Hộ Pháp

NHỮNG BÀI THI TẶNG ĐỨC PHẠM HỘ PHÁP

  
* Đức Chí Tôn giáng cơ cho ĐHP
  Ngày 12-2 1926 ( 30-12- Ất Sửu )

Ngao ngán không phân lẽ thiệt không,
Thấy thằng áp út quá buồn lòng.
Muốn giàu Thầy hứa đem cho của,
Cái của cái công phải trả đồng.


* Trong chuỗi ngày bị lưu đày nơi hoang đảo Madagascar, ĐHP có lúc ra bãi biển giải khuây, Ngài cầm que củi được các Đấng giáng cho thi, viết dưới cát như chấp bút vậy :

Quá hải đòi phen đến viếng nhau,
Ngặt không có bút để lời giao.
An nhàn đợi thuở triều binh đến,
Chuyển thế gặp hồi phải búa đao.
Cõi Á đã gầy thành chủng quốc,
Phương Âu đã diệt tận Nô Lao.
Lửa hương đất Việt dầu nhen nhúm,
Nhờ Đàm Trung Quân ở nước Tàu.

                *  *  *

Hòn đảo nầy đây trước nhốt tù,
Mà nay làm khám khảo thầy tu.
Quả như oan nghiệt vay rồi trả,
Thì lũ Tây man Nhựt Bổn trừ.

* Lý Đại Tiên làm thi cùng Đức Hộ Pháp

Linh quang chiếu diệu giữ trời đông,
Rõ mặt thiên tôn lập đại đồng.
Nắm phướn từ bi dìu chủng tộc,
Cầm quyền bác ái định chơn tông.
Tùy đời chẳng bỏ mưu Hàn Tín,
Trị thế hằng toan kế Tử Phòng.
Xây máy pháp luân nguơn tái tạo,
Sấn tay vẽ đẹp mối Nam phong.

*  27-5-1954 ( 25-4- Giáp Ngọ ) Đức Hộ Pháp Âu Du
Lúc 6 giờ sáng Đức Ngài cho ông Hồ Bảo Đạo hay
Trong đêm Đức Ngài có hội kiến với Đức Chưởng Đạo
Có dạy nhiều việc và cho Đức Ngài một bài thi :

Khởi điểm vinh quang đã vẽ màu,
Giang san đất Việt giá là bao.
Nền nhân Câu Tiển đà chen bước,
Cửa ải Phù Ta đã bước vào.
Mong lịch duyệt nay đà lịch duyệt,
Muốn thanh cao đã được thanh cao.
Rồng Tiên đã gặp hồi phong vũ,
Thay đổi càn khôn thử thế nào.
                                   Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn
                *  *  *

Sáu mươi tám tuổi gánh non sông,
Sinh nhật ân sư chạnh cõi lòng.
Rời khỏi Thánh Tòa lo cứu chúng,
Giáng lâm Tần quốc chuyển Nho tông.
Nâng cây Ma Xử dìu hồn nước,
Phất phướn chí linh hiệp đại đồng.
Cầu phước Thiên Tôn Thầy thọ hưởng,
Lập đời Khai Đạo chuyển thần thông.

Ngày 4 tháng 8 năm Bính Tuất ( 30-8-1946 )

Khi Đức Hộ Pháp từ Madagascar về Tòa Thánh, Đức Thượng Sanh làm bài thơ để mừng Đức Ngài.

Cảm tác
Nhành lá rừng tòng đã điểm tươi,
Còn non còn nước lại còn người.
Xa nhà bỏ lúc thương pha hận,
Gặp bạn nầy đây khóc lộn cười.
Nguồn Đạo xưa trông đôi cảnh nghịch,
Thuyền từ nay lướt một dòng xuôi.
Trời Nam thử điểm trang tân sử,
Đổ lệ cùng nhau gượng để lời.
                    Cao Thượng Sanh

Họa nguyên vận
Sắc son nhuộm tánh đượm màu tươi,
Hay dở khen chê để miệng người.
Đày đọa xét thân không hổ thẹn,
Sang vinh nghĩ phận quá buồn cười.
Vó kỳ từng trải đường nguy hiểm,
Cánh hộc quen chiều gió ngược xuôi.
Ước trả mảy may ơn xã tắc,
Nợ muôn đền một kể chi lời.
                        Phạm Hộ Pháp

Đêm mùng 3-1- năm Nhâm Thìn ( 1952 )
Đức Hộ Pháp gởi cho Ngài Cao Tiếp Đạo

Thi
Chúng ta từ thử bạn đồng tâm,
Dìu bước nhơn sanh khỏi lạc lầm.
Gương huệ sáng soi đường thánh chúa,
Từ bi mở rộng cửa thiền lâm.
Hồn nho tỉnh mộng lìa phường tục,
Phép đạo giác mê sửa nết phàm.
Chấp phướn tiêu diêu tòan cứu khổ,
Chúng ta từ thử bạn đồng tâm.
                                ĐHP
Họa nguyên vận
Hiệp sức đã cùng thệ nhứt tâm,
Đạo mầu vun quén há sai lầm.
Soi đời chẳng có câu thiên mạng,
Tỉnh thế nhờ chung bạn trước lâm.
Bầu ái rưới chan nâng chất thánh,
Nước dương rải khắp gội lòng phàm.
Người sau kẻ trước còn đương sẵn,
Hiệp sức đã cùng thệ nhứt tâm.
                           Cao Thượng Sanh
Họa nguyên vận
Chẳng thẹn ngàn xưa một chữ tâm,
Cùng chung đau khổ há đâu lầm.
Thuyền từ đã trải cơn phong vũ,
Đuốc huệ từng soi bạn hải lâm.
Lừa lọc sẵn nâng gương thánh đức,
Nhộn nhàng chờ dứt tấn tuồng phàm.
Biển trần dìu bước tùng nguơn hội,
Chẳng thẹn ngàn xưa một chữ tâm.
                         Cao Tiếp Đạo

Đêm 12 tháng 10 năm Nhâm Thìn ( 1952 )

Tại Bửu Tháp Đức Quyền Giáo Tông, Đức Hộ Pháp đến dự cuộc thi Văn Đàn, Đức Ngài dạy bói trong tờ nhật báo xem trúng chữ gì. Ông Cao Tiếp Đạo chỉ ngón tay, nhằm chỗ Pháp và Việt Minh đánh nhau tại Na Sầm nên lấy đó làm đề tài ( trích theo đặc san thế đạo 5/70 )

Thi
 Na Sầm chưa phải trọn sơn hà,
Khí tiết anh hùng giống Việt ta.
Chước quỉ hỏi ai gây khói lửa,
Mưu thần nào kẻ dẹp can qua.
Trinh trung phục quốc đương tranh đấu,
Chánh nghĩa hưng ban khó giảng hòa.
Thử nghĩ hoàng đồ là nghiệp cả,
Vì đâu chia xẻ đặng làm ba.
                            ĐHP
  
Thi Bát Nương
 Dám hỏi đại huynh rõ máy trời,
Chừng nào ba lửa cháy ba nơi.
Năm sông đua chảy năm sông cạn,
Bảy núi nổ tan bảy núi dời.
Tận thế Long Hoa sao chẳng thấy,
Cơ trời ngạt khí có hay thôi.
Rồng bay ngựa chạy cho ai cỡi,
Đất dậy chừ bao đổi xác trời.

ĐHP họa vận trả lời Bát Nương
 Hành tàng hư thiệt tại cha Trời,
Đông Mậu dương hồi hỏa khắp nơi.
Châu ngũ khí hòa tan ác nghiệt,
Thất Sơn náo động thất sơn dời.
Thế tàn xuân kỷ Long Hoa trổ,
Thưởng phạt cuối cùng thánh đức thôi.
Long mã lạc vương tiên trạng kỵ,
Cù phi hải sụp lý thay trời.

                * * *


Chúa nhựt ngày 9 tháng 8 năm Giáp Ngọ
( dl 5-9-1954 )

Nhân chuyến Á du, Đức Hộ Pháp viếng Nhựt Nguyệt Đàm  (Hồ Nhựt Nguyệt ) thắng cảnh đẹp nhứt ở Đảo Đài Loan, ĐHP ngâm bài thi trước phong cảnh hữu tình, thiên nhiên tuyệt mỹ. Nhựt Nguyệt Đàm cách Châu Thành Đài Trung 80 cây số.

Đây Hồ Nhựt Nguyệt tại đầu non,
Một nửa vòng câu một nửa tròn.
Xanh biếc điểm màu tòng lộn đảnh,
Trắng ngần lộng sắc nước soi gương.
Đầu gành lăn líu chim ca hát,
Kẹt đá ro re suối khải đờn.
Những khách phong lưu ai để bước,
Cảnh nhàn như thế cảnh nào hơn.

Và một bài thi tứ tuyệt bằng chữ nho

Sơn đầu hữu thượng thủy,
Vận vũ tạo tú khí.
Đài Trung Nhựt Nguyệt Đàm,
Thắng cảnh nhứt vô nhị.

               * * *
  
Cuộc hội ở Kiêm Biên

Thầy nho hỏi:
 ( Nguyễn Trung Hậu hỏi Đức Chí Tôn )

Đôi lời thành thật kính cùng ông,
Linh hiển sao không cứu giống giòng.
Trăm họ nát tan thân cá chậu,
Muôn dân đồ thán phận chim lồng.
Coi mòi diệt chủng mà đau dạ,
Thấy cảnh vong ân bắt chạnh lòng.
Ách nước nạn dân là thế ấy,
Ngồi mà đạo đức có yên không ?

Đức Hộ Pháp đáp :
 Vinh hư tiêu trưởng lạ gì ông ?
Đạo đức không tu cứu giống giòng.
Bởi mến mùi thơm thân cá chậu,
Vì ganh tiếng gáy phận chim lồng.
Đời nay ham sống hơn ham đức,
Phật muốn sửa người trước sửa lòng.
Chừng thấy nhơn dân đời Thuấn Đế,
Như bàn tay trở dễ như không.

               *  *  *
  
XUÂN
 Xuân sắc thiên nhiên vẻ lịch xinh,
Xuân phong đưa đón khách tòan linh.
Xuân hoa rực rỡ muôn màu đẹp,
Xuân cảnh thanh tao một tiếng kình.
Xuân nhựt nhựt tân tình tạo hóa,
Xuân niên niên tải nghĩa quần linh.
Xuân xuân con hỡi mùa xuân đạo,
Xuân đạo về mới dứt chiến chinh.
                  20-1-1966
              Ngọc Hòang Thượng Đế

 Chỉ có xuân thì biết thưởng xuân,
Xuân còn nhớ lại cảnh năm dần.
Lưng trời bạch hạc bay vi vút,
Mặt đất Thần Tiên luận nghĩa ân.
Mở khóa người đời tìm thánh đức,
Trao gươm kẻ sĩ học hiền nhân.
Thiên đàng lòng vẫn bâng khuâng nhớ,
Trần thế còn chăng khách thưởng xuân.
                      20-1-66
                 Đức Cao Thượng Phẩm

Xuân đến chúc nhau hưởng phước trời,
Xuân đi thăm viếng khắp nơi nơi.
Xuân không phân biệt sang hèn đó,
Xuân chúc mọi người được thảnh thơi.
                      21-1-66
                   Đức Cao Thượng Phẩm

 Mừng nhau cầu chúc tạm đôi vần,
Hành đạo giúp đời mới gọi xuân.
Xuân đến với đời đời hạnh phúc,
Xuân lai cõi tục tục vui mừng.
Xuân nầy gánh đạo hai chân bước,
Xuân tới cứu đời đôi mắt rưng.
Xuân nữa xuân đi xuân hạnh phúc,
Là ngày thành đạo mới trùng hưng.
    21-1-66 ĐQGT Thượng Trung Nhựt

Xuân đến muôn nhà hưởng phước duyên,
Xuân đem hạnh phúc đến muôn miền.
Xuân không phân biệt vàng đen trắng,
Xuân đạo huy hoàng vĩnh vĩnh niên.
                    21-1-66 Đức Hộ Pháp

Đổi dời lắm lúc mấu sơn hà,
Xuân vẫn riêng tình với cỏ hoa.
Sắc lẫn hương xuân phơi rỡ rỡ,
Mây hồng ánh nguyệt chiếu lòa lòa.
Ra vẻ thù tròn ơn thượng quốc,
Độc dược cho nên nghĩa kiến hòa.
Hết hạ thu đông xuân cũng đến,
Trời xuân xuân khắp cả bao la.
             21-1-66 Phan Thanh Giản

Xuân sang được hưởng trọn ân hồng,
Phước đức do mình lập quả công.
Học bạn học thầy cùng Phật Thánh,
Cho ra hướng đạo hội Long Hoa.
    1-2-66 Đông Phương Chưởng Quản


Chúc Xuân
 Chào xuân đảnh Việt thấy bay rồng,
Mừng Phạm Thiên Tôn rạng cửa không.
Trường thế rộn ràng vay trả mãi,
Rừng thiền đầm ấm ái hòa đông.
Phướn linh phải buổi dìu nhơn loại,
Phép nhiệm nầy cơn dựng đại đồng.
Ân huệ nhuần chan Hồng Lạc hưởng,
Biên cương vững định giữa trời đông.
                        Cao Tiếp Đạo

Họa nguyên vận
Giống rồng lại gặp hội mây rồng,
Xuân đến vận thời chẳng lẽ không.
Non nước thấy màu xem hớn hở,
Lê dân thoát ách hết long đong.
Ân hồng đã rảy cùng thôn lý,
Bóng phước phủ che khắp ruộng đồng.
Hồng Lạc từ đây cầm xã tắc,
Muôn chung ngàn tứ sức nào đong.
                                HP

               *   *   *
  
Thi
GH Thái Đến Thanh
 Lập trận tru Tiên thấy hãi kinh,
Thần Tiên vào đó cũng ghê mình.
Hào quang chớp nhoáng phân trăm mảnh,
Sát khí mịt mờ bủa lục đinh.
Chấn động Thần Tiên xem héo mặt,
Hai nhà xiểng triệt lộ nguyên hình.
Đường tu ví chẳng dày công đức,
Nhập bảng phong thần khó nổi binh.

Họa vận
Đức Hộ Pháp
 Tru Tiên nhập trận chẳng hề kinh,
Cầm gậy Giáng Ma thủ hộ mình.
Giáng xuống thần hồn người hóa thú,
Đưa lên quỉ xác sắt ra đinh.
Mau mau giác ngộ lo tu niệm,
Sớm sớm ăn năn sửa lỗi mình.
Ví biết sẽ còn ngôi vị cũ,
Bằng không đừng trách chẳng ai binh ./


Thi HCM
 Tôi mới biết ông, ông với tôi,
Hai vai oằn oại khó đi đôi.
Lỡ sanh Nam Bắc chung bờ cõi,
Cùng một ông cha một giống nòi.
Đành chịu cờ tàn thua nửa ngựa,
Cho hay miệng thế mới mười voi.
Mấy lời nhắn gởi xin ông nhớ,
Nước ngược buông câu cá chọn mồi.

Họa vận
 Ông hướng ông, tôi hướng tôi.
Đạo Đời hai hướng khó đi đôi.
Lỡ sanh đồng chủng đồng tai mắt,
Chẳng nở ngồi yên bỏ giống nòi.
Vì chúng dấn thân vào miệng hổ,
Liều mình đánh cọp cứu đàn voi.
Cờ tàn mới biết tài cao thấp,
Nào phải như ai cá chọn mồi.
                        ĐHP

0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Twitter Delicious Facebook Digg Stumbleupon Favorites More