Thứ Tư, 28 tháng 3, 2012

Tiểu Sử Nữ Đầu Sư Hương Hiếu




I/ PHẦN ĐỜI :

Bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu qui danh là Nguyễn Thị Hiếu sanh năm 1886 tại Đakao Sài gòn, bà còn có tên là Hương. Thân sinh là ông Nguyễn Văn Niệm và thân mẫu là bà Trần Thị Huệ.
Khi lên 7 tuổi thân mẫu bà cho bà vào học trường Nhà Trắng (Sài gòn). Năm 17 tuổi thì học nữ công rồi sánh duyên với ông Cao Quỳnh Cư (tức Cao Thượng Thẩm) năm 21 tuổi. Hai năm sau bà sanh hạ 1 trai tên là Cao Quỳnh An du học và mất tại Pháp.

II/ PHẦN ĐẠO :

Năm 1925 Đức Chí Tôn khai Đạo, buổi đầu chưa có Thánh Thất, nên dùng nhà bà làm nơi thờ phượng. Khi cầu cơ bà giữ phần ghi chép Thánh giáo và Đức Cao Thượng Phẩm chấm câu (1925-1926).
Đến tháng 3 năm Bính Dần, Đức Chí Tôn giáng cơ dạy bà may Thiên phục Giáo Tông cho ông Ngô Văn Chiêu, Đầu sư Thượng Trung Nhựt và quí chức sắc Hiệp Thiên Đài. Đến 14-1-Đinh Mão (15-2-1927) bà thọ Thiên ân Giáo sư Nữ Phái.
Khi dời Thánh Thất về làng Long Thành, bà lo việc trù phòng. Bà đã ghi lại trong “ĐẠO SỬ XÂY BÀN” như sau :
“Tôi nhớ lại mỗi buổi sáng tôi đi chợ Tây Ninh với chiếc xe ngựa đặng mua đồ ăn, đường xá vắng bóng người, hai vệ đường cây che rậm rạp, heo rừng và nai lửng thửng kiếm ăn. Một hôm tôi đến Trảng Tròn thấy thây 1 con ngựa bị cọp ăn mất nửa con, nhưng gì quá lo cho Đạo mà bớt sự sợ hiểm nghèo”. Một đời tận tuỵ vì Đạo, Bà phải đoạn trường, vì chồng là Cao Quỳnh Cư qua đời rồi con trai là Cao Quỳnh An bên Pháp chết,kế đến thân mẫu cũng qui Tiên.
Nỗi lo phần nhân đạo vừa xong, năm Canh Ngũ ( 1930) bà bắt đầu đi hành Đạo tỉnh Sa Đéc kiêm luôn tỉnh Thủ Dầu Một (Bình Dương). Đến năm 1934, bà lãnh dạy Giáo nhi, năm sau thăng phẩm Phối Sư. Năm 1941 Pháp chiếm Toà Thánh bà về Thảo Xá Hiền Cung và năm sau xuống Sài gòn hiệp tác với hãng tàu Nitinan để lo về mặt Đạo.
Năm 1946 nền Đạo phục hưng, bà lãnh chưởng quản Ba viện : Lại viện, Lễ viện, Hoà viện Nữ phái ngày 21-9-Bính Tuất (15-10-1946). Đến ngày 16-11-Canh Dần (22-12-1950) bà được thăng phẩm Chánh Phối Sư rồi thăng lên Đầu Sư do Thánh lệnh số 01/TL ngày 24-10-Mậu Thân (13-12-1968) và qui vị lúc 14g ngày 11-5-Tân Hợi (3-6-1971) tại Nữ Đầu Sư Đường.
Bà có lưu lại bài thi để thài dâng lễ bà :

    THI Tu hành gắng chí lập công
    Đến buổi chung qui hưởng phước hồng
    Cửa Đạo gay go đường khổ hạnh
    Đường Tiên nhàn rỗi bước thong dong
    Lợi danh ví muốn cho đầy đủ
    Tội lỗi càng thêm nỗi chất chồng
    Cuộc thế chẳng qua trò mộng ảo
    Ngày về nhắm mắt nắm tay không.
Đối với nền Đại Đạo, bà Đầu Sư Hương Hiếu là đệ nhị Đầu Sư, sau Nữ Đầu Sư Lâm Hương Thanh. Thực tế bà là Nữ Đầu Sư đầu tiên ngự nơi Nữ Đầu Sư Đường, Chưởng quản Nữ Phái Cửu Trùng Đài. Thế nên, năm 1970 Hiền tài Trần Văn Rạng đến Nữ Đầu Sư Đường thăm bà và tặng đôi câu liễn :

    Đầu sư Đường huệ thông Bồng Đảo
    Nữ phái quán âm kiến Phật Đài
Bà là Nữ môn đệ đầu tiên của Đức Chí Tôn, là điển ký ghi Thánh giáo buổi đầu (in thành quyển Đạo Sử I, II) nên Đức Chí Tôn rất ưu ái, giáng dạy bà:

    Trước vốn yêu,nay cũng yêu
    Con gái Út, có bao nhiêu
    Khuyên con lòng như vậy mãi
    Cái mến con, thương Thầy nhiều.

* * *

Sau đây là phần tuyên dương công nghiệp của Bà Nữ Đầu Sư nhân cuộc lễ tấn phong Bà tại Đền Thánh vào ngày 18 tháng 11 Mậu Thân (1968)
Đức Thượng Sanh tuyên đọc :
“Kính thưa Hội Thánh Lưỡng Đài Hiệp Thiên, Cửu Trùng và Hội Thánh Phước Thiện.
Kính thưa chư Chức Sắc Lưỡng Phái
Hôm nay là ngày Lễ tấn phong Bà Nữ Đầu Sư Nguyễn Hương Hiếu, thọ Thiên ân Đầu Sư chánh vị Nữ phái do Thánh giáo của Đức Lý Nhứt Trấn Oai Nghiêm tại Cung Đạo đêm 20 tháng 10 Mậu Thân (9-12-1968).
Lễ lập thệ đã cử hành xong, từ đây Chức sắc Nữ Phái CTĐ đã có vị Đầu sư cầm quyền điều khiển dìu dắt trên đường Thánh Đức để trau giồi đạo hạnh, lập chí vị tha cho xứng đáng là bậc Nữ Thánh nhơn trong cửa Đại Đạo.
Đức Lý Đại Tiên ban ân huệ cho bà Nguyễn Hương Hiếu, thật là một sự thăng thưởng công minh và một khích lệ lớn lao cho toàn thể Nữ phái.
Trên đường lập vị, bà Nguyễn Hương Hiếu là Chức sắc Nữ phái duy nhất đã đạt tới phẩm vị tối cao với một công nghiệp có thể nói là phi thường và một tinh thần phục vụ đáng kính phục.
Bà là một tín đồ Cao Đài trước khi Đạo Cao Đài chính thức ra đời, một Nữ Chức Sắc đầu tiên đã có mặt trong đêm 3 ông Cư, Tắc, Sang họp nhau chơi xây bàn và tiếp xúc được với các chơn linh cõi vô hình, tức là đêm 7 tháng 6 Aát Sửu (dl 27-7-1925)
Từ đó về sau, đêm nào Bà cũng tiếp tay với 3 vị kể trên để chép thi văn hoặc những câu đàm thoại của các chơn linh. Đến sau có các Đấng Thiêng Liêng giáng cơ thì Bà lãnh phận sự thơ ký chép Thánh ngôn và tiếp đãi quí khách trong hàng trí thức tới lui ngày càng nhiều để tìm Đạo hoặc chứng kiến sự mầu nhiệm của cơ bút.
Mỗi đêm, Bà phải thức đặng hầu bút trong đàn cơ, xong rồi thì lo lắng bữa ăn giải lao cho 3 vị chủ nhân và quí khách là những bạn thân đến hầu đàn, không quản cực nhọc, không chút than phiền. Nhờ sự giúp sức về tinh thần của Bà mà cuộc chơi xây bàn của 3 ông Cư, Tắc, Sang đã đưa tới giai đoạn sáng lập nền ĐĐTKPĐ hiện tại trong nước Việt Nam.
Đức Thượng Phẩm nhờ có người bạn đường đồng tâm nhứt trí như Bà mới phấn khởi bỏ cả công danh sự nghiệp lo lập công tạo thành nền tảng của Đạo lúc ban sơ.
Sau ngày Đức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt gởi tờ Khai Đạo cho quan Thống Đốc Nam Kỳ, số người nhập môn ngày càng thêm đông, công việc của Bà càng thêm nặng nhọc. Mỗi đêm Bà phải ra công dạy mấy chục đồng nhi đọc Kinh cho đúng theo nhịp nhàng và vâng theo lịnh của Đức Chí Tôn, Bà phải lãnh may Thiên phục cho tất cả Chức sắc Hiệp Thiên và Cửu Trùng cho kịp ngày khai Đạo tại chùa Gò Kén.
May Thiên Phục cho Chức sắc do theo Thánh giáo chỉ dạy chẳng phải là một việc dễ dàng ai cũng làm được, nhứt là lúc ban sơ không có một kiểu mẫu nào sẵn, nhưng nhờ Bà có khiếu thông minh, nhờ tài nữ công tinh xảo nên áo mão của phẩm vị nào Bà cũng trù nghĩ may đúng theo Thánh ý Đức Chí Tôn.
Kế đó, vâng theo Thánh giáo đêm 24 tháng 9 Bính Dần (1926) bà phế đời cùng Đức Thượng Phẩm về chùa Từ Lâm Gò Kén, nhằm ngày rằm tháng 10 Bính Dần là ngày thiết Lễ Khai Đạo và ở luôn nơi đó cho tới hơn 3 tháng sau, Bà cùng Đức Thượng Phẩm lo dời chùa về Long Thành Tây Ninh.
Bà góp sức chịu cực khổ lo việc trù phòng nuôi công quả, tổng số hơn 300, do Đức Thượng Phẩm điều khiển công cuộc phá rừng và lập Thánh Thất tạm nơi vùng đất mới, tức là vùng Nội Ô Thánh Địa hiện tại.
Đầu tiên, bà Nguyễn Hương Hiếu thọ phong chức Giáo Sư tại Từ Lâm Tự Gò Kén ngày 14 tháng Giêng- Đinh Mão (dl 15-2-1927). Đó là đàn cơ thứ nhứt phong thưởng cho Nữ Phái.
Qua năm Aát Hợi (1935) bà được thăng phẩm Phối Sư và đến ngày 16 tháng 11 năm Canh Dần (1950) bà được thăng phẩm Chánh Phối Sư, Chưởng quản Lại Viện, Lễ Viện và Hoà Viện Nữ Phái.
Bà hành quyền Chánh Phối Sư trong 18 năm, cho tới ngày 20 tháng 10 Mậu Thân (dl 9-12-1968) Đức Lý Nhứt Trấn Oai Nghiêm ban ân huệ cho bà lên Đầu Sư chánh vị.
Một đời tận tuỵ vì Đạo, vì chúng sanh, hơn 43 năm công nghiệp chịu bao nhiêu gian lao khổ hạnh, chết về mặt đời, sống về mặt Đạo, trải qua nhiều cơn thử thách cay nghiệt, bà phải nát gan bấn ruột, trong lúc người bạn đường đã qui vị, đứa con trai độc nhất lại từ trần bên Pháp quốc, kế ít lâu cụ thân mẫu của bà lại từ giã cõi đời. Bà chỉ còn một mãnh thân bơ vơ cô độc trong tình cảnh não nùng bi đát, để rồi khi nắng sớm mưa chiều , lúc canh tàn đêm lụn, bà không thể ngăn được giọt thảm đầm đìa để khóc chồng, khóc con và khóc mẹ.
Đường tử biệt đã làm cho tan nát cảnh gia đình, tất cả hy vọng đều đỗ vỡ thì người trong cuộc còn biết trông cậy vào đâu để sống còn trong những chuỗi ngày sầu hận.
Nhưng may thay, nhờ Bà đã thâm nhiễm mùi Đạo, tự biết muôn sự ở đời đều là giả cuộc, kiếp phù sinh như cảnh hoa sớm nở tối tàn, nhứt là nhớ lời khuyên nhủ của các vị Tiên Nữ Diêu Trì Cung, nên bà tự an ủi lấp thảm vùi sầu, khuây khỏa với tiếng kệ kinh, lấy chữ vị tha làm mục đích, tận tâm phục vụ dắt dìu nữ phái, quyết lòng hiến cả tâm hồn lẫn xác thân cho nền Đại Đạo.
Vì vậy, sự ban thưởng phẩm vị Đầu Sư cho bà Nguyễn Hương Hiếu thật đúng chỗ và xứng đáng.
Kính thưa hiền tỷ Đầu Sư,
Hiền tỷ đã đạt đến cấp bậc tối cao của Nữ phái CTĐ, đó là một vinh hạnh siêu nhiên mà không có một vinh hạnh nào ở cõi trần nầy sánh bằng, hiền tỷ có quyền hưởng thụ và hiền tỷ nên vui mừng vị sự ban thưởng cho hiền tỷ là một ân huệ thiêng liêng để đền đáp lại 43 năm công nghiệp và một tấm lòng son sắt vì Đạo, thuỷ chung như nhứt.
Giờ đây đến lúc thi hành sứ mạng. Hễ phẩm vị càng cao thì trách nhiệm càng nặng, phận sự càng khó khăn.
Nếu không lấy Đạo làm trọng, lấy đức làm căn bản, lấy lẽ công làm chuẩn thăng, lấy cương trực làm đường lối, thì không thể thực hành đúng đắn phận sự.
Phải sợ Đức Chí Tôn và Phật Mẫu hơn sợ mích lòng người thì mới hẳn là vô tư, còn vị nể cá nhân hơn tôn trọng Luật Đạo thì chẳng phải là tư cách của người cầm quyền. Vì cán cân công bình một khi đã chênh lệch thì đạo đức không còn tồn tại mà việc làm chỉ là tác động quá tầm thường của kẻ phàm tục.
Hiền tỷ đã có nhiều kinh nghiệm trong trách vụ điều khiển Nữ phái, tôi tin chắc là Hiền tỷ có đủ sáng suốt nhận định để nâng cao đời sống tinh thần của Nữ phái và giúp cho Đạo trong sứ mạng cao trọng mà Đức Lý Đại Tiên đã giao cho Hiền tỷ”.




Video Lời Dạy Của Đức bà Đầu Sư Hương Hiếu 1970

0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Twitter Delicious Facebook Digg Stumbleupon Favorites More